Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 08/12/2008 15:19 (GMT+7)

Suy nghĩ về chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển Việt Nam

Nghị quyết 4 của Ban Chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X về "Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020" ra đời đầu năm 2007 đánh dấu một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển kinh tế của đất nước.

Tuy nhiên, cho đến nay sự chuyển động của xã hội cũng như các ngành chức năng liên quan hình như còn khá chậm chạp, chưa tương xứng với quyết tâm của một nước ven biển có đầy đủ tiềm năng và điều kiện để trở thành một quốc gia mạnh về biển trong tương lai. Chắc hẳn là có nhiều lý do... Bài viết xin nêu một phần suy tư để tiện tham khảo.

Cần thống nhất khái niệm về kinh tế biển.

Qua các cuộc hội thảo ở cấp quốc gia, chuyên ngành và địa phương: "Hội thảo về tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thuỷ sản Việt Nam", "Hội thảo đào tạo nguồn nhân lực biển trong thời kỳ hội nhập quốc tế"... cũng như nghiên cứu nhiều bài viết có giá trị học thuật và thực tiễn được đăng tải trên những tạp chí chuyên ngành biển. Chúng tôi nhận thấy điều trước tiên là chúng ta nên nhất trí về khái niệm kinh tế biển theo đúng tinh thần Nghị quyết 4 của TW khoá X và những điều kiện thực tế của nền kinh tế Việt Nam .

Hiện nay trên bình diện quốc tế, các nước cũng chưa hoàn toàn đồng thuận về khái niệm kinh tế biển, mỗi quốc gia biển có cách nhìn riêng phụ thuộc vào giá trị đóng góp của ngành này đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng về cơ bản thì kinh tế biển là khái niệm mang tính thực tiễn, có thể chia làm hai phần chủ yếu:

Một là: Toàn bộ những hoạt động kinh tế diễn ra trên biển kinh tế hàng hải (vận tải biển, khai thác cảng biển và dịch vụ liên quan) hải sản (đánh bắt, nuôi trồng, khai thác cảng cá), khai thác dầu khí trên biển, du lịch biển, nghề muối biển, dịch vụ tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển, kinh tế hải đảo.

Hai là: Những hoạt động trực tiếp liên quan đến khai thác, có thể không diễn ra ngay trên biển, nhưng dựa vào yếu tố biển và diễn ra từ đất liền.

Đóng và sửa chữa tàu biển (có nước xếp vào kinh tế hàng hải), Công nghiệp chế biến dầu khí, Công nghiệp chế biến hải sản, cung cấp dịch vụ biển (khí tượng thuỷ văn, logistic và một số lĩnh vực khác...), thông tin liên lạc biển (đài phát tín ven biển, hệ thống định vị), nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường biển, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển, bảo vệ môi trường, sinh thái biển.

Khái niệm kinh tế biển được nói trên mang tính phổ cập, được nhiều quốc gia biển và một số tổ chức quốc tế sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, về cơ cấu thành phần trong một số ngành và lĩnh vực cũng có thay đổi ít nhiều.

Ví dụ: Tổ chức Apec lại đưa cả vấn đề phòng thủ (an ninh, quốc phòng trên biển và những dịch vụ quốc gia), chương trình bảo vệ bờ biển (kè, đê chắn sóng, đê biển), lấn biển, phục hồi sinh thái biển vào khái niệm kinh tế biển... quả đây là vấn đề rộng lớn và phức tạp của thế giới.

Tình trạng nguồn nhân lực quốc gia và nhân lực của một số ngành chủ chốt của kinh tế biển Việt Nam

Như chúng ta biết, chiến lược phát triển kinh tế biển là cốt lõi của chiến lược biển Việt Nam vì kinh tế biển là nền kinh tế của khoa học - công nghệ hiện đại, của tiềm lực tài chính, của sức mạnh chính trị, quân sự và ngoại giao của một quốc gia. Lịch sử nhân loại đã chứng minh những cường quốc phát triển trên thế giới đều là những quốc gia biển. Sự thành công của họ được quyết định phần lớn là ở nguồn nhân lực dồi dào có nghề nghiệp với kỹ năng cao đủ sức khai thác tài nguyên của biển và đại dương một cách hiệu quả và bền vững. Chính vì vậy, việc xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam có tay nghề và kỹ năng đang thiếu và yếu so với các nước trong khu vực, khi chúng ta hội nhập thế giới.

Cả nước hiện nay có 53 triệu người ở tuổi lao động (chiếm 63% dân số) thì chỉ mới có 27% được đào tạo chính quy, đạt chất lượng quốc tế, còn lại 73% chưa được đào tạo tay nghề, nhất là ở nông thôn. Nếu lấy 10 làm thang điểm cho nguồn nhân lực có kỹ năng để so sánh với một số quốc gia láng giềng, chúng ta có kết quả tương ứng như sau: Hàn Quốc là 6,91/10, Trung Quốc 5,73/10, Malaysia5,59/10, Việt Nam 3,79/10.

Về năng suất lao động, Việt Nam được xếp 77/125 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Rõ ràng, vấn đề đào tạo tay nghề cho dân là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay là ngành sử dụng tương đối nhiều nhân lực, có thể tạo ra lợi thế phát triển và cạnh tranh. Đội tàu biển quốc gia năm 2007 có 1.199 chiếc với tải trọng 4,3 triệu DWT, đã vận chuyển được 61,3 triệu tấn hàng hoá, trong đó 18% là hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đội tàu phấn đấu đến năm 2020 đạt 11 triệu DWT, để đảm bảo được 35% hàng xuất nhập khẩu và 45% hàng trong nước. Hệ thống cảng biển năm 2007 đã thông qua, 181,1 triệu tấn hàng hoá, trong đó hàng container là 4,4 triệu TEU"S. Theo dự kiến đến năm 2020 phải đưa năng lực thông qua của hệ thống cảng biển lên 550 triệu tấn hàng hoá thì mới thoả mãn nhu cầu phát triển của ngành hàng hải.

Hiện nay, nguồn nhân lực cho ngành này được cung cấp bởi hai Trường Đại học và 3 trường Cao đẳng, mỗi năm đáp ứng khoảng 70% lượng sỹ quan hàng hải và thuyền viên cho đội tàu (kể cả xuất khẩu) và một phần lực lượng quản lý, khai thác các cảng biển, đóng tàu biển và các ngành dịch vụ khác của kinh tế hàng hải. Tuy nhiên, sỹ quan và thuyền viên vừa thiếu về số lượng, vừa yếu tố về chuyên môn và ngoại ngữ, đội ngũ quản lý khai thác hệ thống cảng biển thì trình độ lẫn đẳng cấp chưa ngang tầm quốc tế, nên các cảng hoạt động năng suất thấp, không đủ sức cạnh tranh với những cảng trong khu vực và trên thế giới. Để khắc phục tình trạng này cần đầu tư mở rộng và nâng cao các cấp bậc đào toạ cho các trường hàng hải, chú trọng chất lượng và kỹ năng nghề nghiệp đi biển, nhất là thuyền viên xuất khẩu, một thế mạnh của chúng ta, quốc gia có nguồn lao động dồi dào.

Công nghiệp tàu thuỷ Việt Namđây là ngành phát triển nóng trong kinh tế biển và công nghiệp ở việt Nam , với mức tăng trưởng hàng năm từ 30 - 40%. Vinashin đã đóng được tàu biển có trọng tải trên 10 vạn tấn DWT với nhiều chủng khác nhau, đạt tiêu chuẩn quốc tế cho các chủ hàng trong và ngoài nước. Năm 2007 đóng mới và hạ thuỷ gần 750.000 DWT các loại.

Hiện giờ tập đoàn đang quản lý trên 300 đơn vị thành viên nằm rải rác từ Bắc đến Nam, sử dụng hơn 10 vạn lao động có tay nghề cao. Từ nay đến 2015, mỗi năm cần bổ sung từ 10.000 - 15.000 nhân lực có kỹ thuật, trong đó có khoảng 1.800 - 2.000 trình độ đại học. Với quy mô đào toạ hiện nay, vừa không đủ số lượng vừa kém chất lượng, mới chỉ đáp ứng khoảng 60% nhân lực cho ngành này. Vinashin đã đề nghị Nhà nước cho phát triển hệ thống đào tạo bậc Cao đẳng và Đại học khép kín cho ngành mình. Có thể đây là bài toán khó giải cần đến sự phối hợp và liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước, nhà trường và người sử dụng nhân lực thì mới tìm ra đáp số tích cực.

Hải sản tuy chưa phải là ngành sản xuất công nghiệp qui mô, hiện đại, chủ yếu vẫn là khai thác nhỏ của nhân dân ở ven bờ và khu vực biển gần, nhưng với lợi thế có bờ biển dài và phương tiện nhiều (87.000 tàu thuyền với 4.800.000 mã lực, trong đó 87% có công suất máy dưới 90 mã lực) nên sản lượng tương đối cao. Việt Nam được xếp là một trong 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu về hải sản của thế giới. Năm 2006 đạt kim ngạch gần 3,5 tỷ USD, chiếm vị trí quan trọng trong kinh tế biển Việt Nam . Đây là ngành sử dụng nhiều lao động, chỉ tính các lĩnh vực đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ ở các cảng cá đã có trên 1,4 triệu lao động tham gia, đó là chưa kể khoảng 20 triệu dân sống ở 115 huyện ven biển gắn bó và quan hệ với quyền lợi biển. Phần lớn lao động của ngành hải sản đều là ngư dân chưa qua đào toạ có hệ thống và bài bản nên chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, nhất là sắp đến ngành đang cơ cấu lại sản xuất để đi vào công nghiệp và hiên đại hoá. Nên chăng, ngay từ bây giờ cần tiến hành đào tạo nguồn nhân lực mới lấy từ lao động dồi dào trong ngư dân để vừa nâng cao trình độ dân trí, vừa xây dựng lực lượng hùng hậu có tay nghề và kỹ năng, chẳng những góp phần phát triển ngành hải sản mà còn chủ động mở rộng thế trận an ninh quốc phòng trên biển khi có sự cố.

Khai thác dầu khí trên biển: là ngành công nghiệp mới, bắt đầu hoạt động từ 1986 trên cơ sở sử dụng chuyên gia nước ngoài của các liên doanh và một phần lao động Việt Nam được huấn luyện đào tạo cấp tốc từ Viện Xây dựng công trình biển của Trường Đại học Xây dựng và một số trường Đại học Khoa học tự nhiên và Đại học Bách khoa trong nước.

Qua 22 năm hoạt động và trưởng thành, ngành khai thác dầu khí trên biển đã trở thành ngành mũi nhọn của kinh tế biển Việt Nam . Năm 2005 khai thác được 18,8 triệu tấn dầu thô hầu như được xuất khẩu toàn bộ với kim ngạch đạt 7,44 tỷ USD, chiếm 22 - 24% kim ngạch xuất khẩu của quốc gia.

Đến nay, ngành dầu khí Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới là đã hình thành công nghiệp chế biến và mở rộng hợp tác quốc tế để khai thác nguồn dầu khí bên ngoài biên giới quốc gia. Hành trang về vốn liếng và khoa học công nghệ đang còn khiêm tốn, nhưng cũng đủ lực để phát huy hợp tác với thế giới. Chính lúc này cần phải bổ sung nguồn nhân lực kỹ năng cao để đi vào công nghệ hiện đại. Nếu trước đây nguồn đào tạo chỉ cung cấp hàng năm trên dưới 100 sinh viên thì nay phải tăng gấp 4 - 5 lần nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững cho ngành dầu khí trong quá trình hội nhập.

Các ngành khai thác liên quan đến khai thác kinh tế biển diễn ra từ đất liền: đó là những ngành thuộc nhóm thứ hai của kinh tế biển mà hoạt động chủ yếu diễn ra từ đất liền được gắn chặt với những công trình nghiên cứu khai thác biển từ các trường đại học, các viện nghiên cứu của một số bộ quản lý nhà nước. Với lực lượng không nhiều các nhà trí thức đầu ngành của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, xây dựng, thuỷ lợi, khí tượng, thủy sản, môi trường... chưa tập hợp và phát huy đầy đủ năng lực để cống hiến cho sự nghiệp phát triển biển Việt Nam, đó là chưa kể một số ngành và lĩnh vực bị bỏ ngỏ như: khai thác vật liệu hoá phẩm trong nước biển, công nghệ hoá lý (công nghệ màng) trong khai thác nước ngọt từ biển, công nghệ khai thác năng lượng biển (sóng biển, thuỷ triều, thuỷ nhiệt)... là những lĩnh vực rất cần cho một nền kinh tế biển hiện đại.

Suy nghĩ về chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển Việt Nam

Trong hai phần đầu chúng ta đã định hình cũng như tiếp cận với nguồn nhân lực của một số ngành chủ chốt của kinh tế biển Việt Nam , đó chính là tiền đề và nền tảng cho tư duy về một chiến lược đào tạo hợp lý và hiệu quả.

Phải có tầm nhìn rộng với tư duy mới

Cho đến nay, khi nói đến kinh tế biển người ta chỉ nghĩ về tàu bè, dầu khí, hải sản, du lịch, tức là những ngành có đóng góp lớn tăng trưởng GDP của quốc gia. Điều đó dễ hiểu và hợp với logic của sự bắt đầu quá trình phát triển. Nó xuất phát từ tư duy của nền văn minh nông nghiệp lúa nước ở giai đoạn chuyển sang công nghiệp để chuẩn bị tiến ra biển và đại dương theo xu thế thời đại, có nghĩa kinh tế biển là sự kéo dài của kinh tế đất liền, chứ chưa phải là động lực của nền kinh tế quốc dân. Có lẽ vì thế mà đến nay chúng ta chưa có được một chiến lược hoàn chỉnh về đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển, trong khi Nghị quyết 4 của TW khoá X nêu rõ: "Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển...". Vậy, có người hỏi: "Hiện nay chúng ta đang ở đâu?” Về mặt quyết tâm chính trị thì rõ ràng chúng ta đang tiến ra biển, nhưng thực tế cho thấy chúng vẫn đứng trước biển... nếu như không có được tầm nhìn rộng và xa với tư duy mới về biển.

Thống nhất quản lý công tác đào tạo

Ai cũng hiểu kinh tế biển là lĩnh vực phức hợp, đa ngành nghề, sử dụng nghiều lao động. Nguồn nhân lực của kinh tế biển phải là lao động có tay nghề, có kỹ thuật được huấn luyện và đào tạo hệ thống, bài bản theo chiến lược phát triển quốc gia nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên của biển và Đại dương.

Tuy nhiên, kinh tế biển Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với thực trạng ngược lại, đó là nguồn nhân lực thiếu và yếu. Năng lực khai thác biển còn thấp so với các nước trong khu vực, chỉ bằng 1/7 của Hàn Quốc, 1/20 của Trung Quốc và 1/49 của Nhật Bản. Nguyên nhân thì ai cũng có thể nêu, nhưng thiết nghĩ cách khắc phục đơn giản mang tính khả thi là phải thống nhất công tác đào tạo về một đầu mối để phát huy sức mạnh tổng hợp về trí tuệ nhằm xây dựng một chiến lược đào tạo có hiệu quả, nâng tầm vóc nguồn nhân lực kinh tế biển Việt Nam ngang bằng với thế giới.

Mở rộng phạm vi đào tạo và phát triển một số ngành nghề mới

Nếu tính chung trên cả nước hiện có 8 trường đại học và chuyên ngành và không chuyên thuộc 7 bộ quản lý Nhà nước, cùng nhiều trường cao đẳng, trung cấp dạy nghề (chưa kể số cơ sở đào tạo công nhân kỹ thuật của rất nhiều nhà máy, xí nghiệp) cung cấp nhân lực cho các ngành kinh tế biển. Số cơ sở nêu trên nghe thì nhiều nhưng khả năng cung cấp lại không thoả mãn nhu cầu phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Điều đáng lưu ý là số lượng cán bộ quản lý và nghiên cứu khoa học của một số ngành mà hoạt động diễn ra từ đất liền, nhưng lại rất quan trọng đối với kinh tế biển đang bị khiếm khuyết nghiêm trọng. Hải dương học là một ngành khoa học tổng hợp trí thức cơ bản về tự nhiên của biển và đại dương vẫn không được quan tâm đúng mức. Các ngành công nghệ biển như: công nghệ bờ biển, công nghệ biển khơi và công nghệ môi trường biển đều là những ngành công nghệ mới mang tính cạnh tranh cao, đang rất cần cho quốc gia biển trong thời kỳ hội nhập thì bị bỏ ngỏ, chưa được hình thành... Từ đó cho thấy rằng việc phát triển mới và mở rộng đào tạo thêm nhiều ngành nghề liên quan đến khoa học - công nghệ và kinh tế biển ở các trường đại học Việt Nam là nhiệm vụ cấp bách chẳng những để phát triển kinh tế mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược của quốc gia biển trước thảm hoạ biến đổi khí hậu toàn cầu đang đe doạ an ninh Tổ quốc.

Khoa học - công nghệ tiên tiến và nhân lực có kỹ năng là yếu tố quyết định cho sự thành công

Hoạt động khoa học - công nghệ Việt Nam tuy bắt đầu khá sớm từ những năm 30 của thế kỷ trước, rồi được đẩy mạnh trong thời gian ngắn ở thập niên 60 và mở rộng qui mô từ sau năm 1975. Đến nay đã tròn 70 năm, là ngành khoa học - công nghệ có thâm niên cao, đã ghi nhiều thành tựu nhất định trong lịch sử phát triển khoa học - công nghệ biển Việt Nam vẫn được đánh giá là loại yếu trong khu vực về lực lượng, trình độ, đẳng cấp, trang bị kỹ thuật cũng như đầu tư phát triển. Lịch sử của nhiều cường quốc biển xưa và nay cho thấy: "Để có một nền kinh tế biển mạnh thì phải có một nền khoa học công nghệ tiên tiến làm hạt nhân", đó là qui luật phát triển, đồng thời cũng là bài học cho những nhà hoạch định chiến lược phát triển biển quốc gia. Thực hiện Nghị quyết TW 4 Khoá X về "Chiến lược biển Vịêt Nam đến năm 2020", nhằm tạo điều kiện cho kinh tế biển phát triển nhanh, Nhà nước dự kiến trong vòng 15 năm tới sẽ đầu tư khoảng 500 triệu USD cho khoa học công nghệ biển, trong đó 40% dành cho nghiên cứu khoa học và trang bị kỹ thuật, 15% cho đào tạo nhân lực. Con số này chưa phải là lớn đối với thế giới, nhưng cũng tạo niềm tin và sự phấn khởi cho những người tâm huyết với biển Việt Nam , bởi đã có sự thay đổi tư duy trong cách nhìn đối với sự nghiệp phát triển biển.

Chúng ta tin tưởng các nhà khoa học - công nghệ Việt Nam sẽ có cơ hội cống hiến tốt hơn, các nhà giáo dục đào tạo sẽ có điều kiện cung cấp nguồn nhân lực kỹ năng cao hơn, cùng nhau tìm con đường ngắn nhất để sớm đến mục tiêu "Một quốc gia biển giàu mạnh, văn minh có nền công nghiệp hiện đại ở Biển Đông".

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.