Sử dụng bột men từ phụ phẩm men bia làm từ thức ăn chăn nuôi
Hệ số hấp thụ của protein này cũng rất cao. Hàm lượng vitamin trong nấm men với hoạt tính cao hơn gấp 2 - 3 lần so với vitamin tổng hợp. Nấm men còn cung cấp vitamin B tự nhiên phong phú, chứa nhiều enzym kích tốc có ảnh hưởng tốt tới quá trình trao đổi chất, nhưng không gây độc hại cho cơ thể. Thành phần khoáng trong nấm men rất đa dạng với tỷ lệ phù hợp với nhu cầu và khả năng hấp thụ, chuyển hoá của cả người và động vật. Nấm men là thức ăn bổ sung có hàm lượng các axit nucleic, trung bình khoảng 10,8% rất cần thiết.
Ở Việt Nam , nấm men bia thu được từ các nhà máy bia rất lớn. Ước tính trung bình cứ 1000 lít bia thu được 1,5 kg nấm men khô, trong đó chứa khoảng 700g protein. Năm 2003 sản lượng bia của cả nước đạt 1,29 tỷ lít. Ước tính đến năm 2010 sản lượng bia của cả nước đạt 2,5 tỷ lít. Tương ứng với 18 triệu tấn sinh khối nấm men thải ra của cả năm 2005 và sẽ là 30 triệu tấn vào năm 2010. Như vậy, lượng protein có chất lượng cao từ nấm men thải ra của quá trình sản xuất bia nếu tận dụng được là không nhỏ. Trong khi đó, ngành thức ăn chăn nuôi phải nhập khẩu hàng triệu tấn khô đậu tương, các nguyên liệu giàu chất đạm khác (chiếm 60 - 70% nhu cầu của ngành), riêng khô đậu tương năm 2006 đã nhập 1,7 triệu tấn.
Việc nghiên cứu chế biến và sử dụng bột nấm men cho chăn nuôi còn rất ít và hiện nay ở Việt Nam chỉ sử dụng nấm men bia thải ở dạng tươi nên lượng sử dụng không được nhiều. Việc bảo quản khó khăn của phụ phẩm này là cản trở chính cho việc sử dụng, gây lãng phí và gây ô nhiễm môi trường. Viện Chăn nuôi đã nghiên cứu thành công chế biến nấm men thải của quá trình sản xuất bia ở Việt Nam thành dạng bột có chất lượng cao, hàm lượng protein 47 - 48% với sự có mặt đầy đủ của các loại axit amin không thay thế. Coi đây là nguồn thức ăn giàu đạm để bổ sung vào khẩu phần thức ăn cho chăn nuôi.
Qua kết quả nghiên cứu và thử nghiệm cho thấy:
1. Đối với lợn con theo mẹ
Sử dụng 3% và 10% nấm men (48% CP) trong thức ăn đã không làm ảnh hưởng xấu tới sự phát triển, khả năng tăng trọng cũng như chỉ số tiêu tốn thức ăn so với sử dụng 3% bột cá (60% CP). Đồng thời, giảm tỷ lệ mắc chứng tiêu chảy.
2. Đối với lợn con sau cai sữa
Sử dụng 5% bột nấm men (48% CP) làm giảm giá thành sản xuất, tăng trọng cao hơn 4,9% và tăng khả năng ăn 5,8% so với sử dụng 3% bột cá (60% CP) .Sử dụng 10% bột nấm men (48% CP) đã làm giảm chỉ số FCR 6,5%; giảm giá thành sản xuất 7,6% so với sử dụng 3% bột cá (60% CP), còn chỉ tiêu tăng trọng thì tương đương.
3. Đối với nuôi lợn thịt thương phẩm
Sử dụng bột nấm men (48% CP) từ 3% đến 10% trong khẩu phần ăn của lợi ngoại nuôi thịt giai đoạn I (20 - 45 kg), có ảnh hưởng tốt đến quá trình sinh trưởng và cao hơn so với sử dụng 3% bột cá (60% CP) từ 1,5 - 7% làm tăng khả năng ăn vào, giảm chỉ số tiêu tốn thức ăn và hạ được giá thành sản phẩm nuôi lợn thịt.
Sử dụng bột nấm men (48% CP) từ 3% đến 5% trong khẩu phần ăn của lợn ngoại nuôi thịt giai đoạn 2 (45 kg đến xuất chuồng) cho hiệu quả tăng trọng cao, giảm giá thành sản xuất và chi phí thức ăn so với sử dụng 3% bột cá (60% CP). Còn có tác dụng không gây bệnh đường ruột như tiêu chảy, phân sống. Trong khi đó đối với bột cá, sử dụng trên 5% đã cố thể gây nên các bệnh đường ruột trên.
4. Đối với gà nuôi lấy thịt
Gà Lương Phượng nuôi thịt đến xuất chuồng 84 ngày tuổi, được chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn 1 được nuôi đến 28 ngày tuổi; giai đoạn 2 được nuôi đến 56 ngày tuổi và giai đoạn 3 được nuôi đến 84 ngày tuổi (xuất chuồng). Sử dụng bột nấm men ở cả 3 giai đoạn là: giai đoạn 1 từ 6 - 10%; giai đoạn 2 từ 4 - 10% và giai đoạn 3 từ 3 - 10%; đều không ảnh hưởng đến tăng trọng của gà nuôi thịt và không có sự sai khác so với nuôi bằng bột cá, ở giai đoạn 1 là 6%; ở giai đoạn 2 là 4% và giai đoạn 3 là 3%.
Khả năng thu nhận thức ăn hàng ngày bằng bột nấm men ở cả 3 giai đoạn, so với sử dụng bột cá đều cao hơn 2,9% ở cả 3 giai đoạn. Có thể kết luận: sử dụng bột nấm men (48% CP) trong khẩu phần ăn của gà nuôi thịt Lương Phượng với tỷ lệ tối thiểu là 4 - 10% trong các giai đoạn nuôi.