Sóng điện thoại di động làm yếu tinh trùng
Các “tinh binh” đau khổ
“Không thể bàng quan trước thực trạng nhiều bộ đội rađar bị rơi vào tình trạng vô sinh, đầu năm 2004 bọn mình bắt tay vào thực hiện công trình “Nghiên cứu ảnh hưởng của sóng siêu cao tần và tác dụng của chế phẩm Azolla Microphyla đến số lượng và chất lượng tinh trùng” - Trần Quang Huy nhóm trưởng cho biết.
Suốt gần một năm trời cả nhóm “đánh vật” với 30 chú chuột nhắt đực trắng trong phòng thí nghiệm. Hằng ngày, các chàng trai thay phiên nhau mang thức ăn cho chuột từ Học viện lên Trung tâm Sinh thái Quân sự. Họ cho những chú chuột thí nghiệm sống trong môi trường có chiếu sóng siêu cao tần ngày 2 giờ trong điều kiện nhiệt độ 28°c, độ ẩm 90%. Chiếu liên tục trong bốn tuần thì bắt chúng đem giải phẫu. Đếm qua kính hiển vi cho thấy số lượng tinh trùng của các chú chuột đực giảm rõ rệt. Khi cho lũ chuột này “cặp đôi” với chuột cái chẳng có kết quả gì, trong khi lũ chuột bình thường đã kịp sinh 7 – 8 con trong cùng thời gian nuôi.
Nghiên cứu trên chuột đã khó, nhưng lấy mẫu tinh trùng xét nghiệm ở người còn nan giải hơn vì đây là chuyện tế nhị. Ròng rã mấy tháng trời năm chàng trai lặn lội từ Hà Đông ra Hà Nội rồi vào Thanh Hoá vận động, thuyết phục các anh công nhân viên quốc phòng tại các trạm radar hợp tác. Huy nhớ lại: “Lúc đầu họ không chịu. Cả bọn phải thuyết phục gần một tháng các anh ấy mới đồng ý. Cuối cùng, chúng mình đã làm xét nghiệm tinh dịch đồ cho 142 công nhân tuổi từ 25 trở lên có thời gian làm việc tại các trạm radar từ 1 đến 3 năm”. Kết quả cho thấy 75/142 người tiếp xúc với sóng siêu cao tầng có số lượng và chất lượng tinh trùng giảm.
Số lượng và chất lượng tinh trùng của người làm việc tại các trạm radar (Bảng 1)
Tín hiệu vui cho những người hiếm muộn
20 công nhân làm việc tại các trạm radar có số lượng và chất lượng tinh trùng kém được điều trị bằng thuốc Medyphalamin - chế phẩm của Azolla Microphyla. Xét nghiệm lại thấy kết quả hết sức bất ngờ: Số lượng tinh trùng tăng. Tỷ lệ tinh trùng chết giảm hẳn.
Tác dụng của Medyphylamin đến sự hồi phục số lượng và chất lượng tinh trùng trên 20 bệnh nhân sau điều trị (Bảng 2)
Niềm vui càng được nhân lên khi công trình của 5 bạn sinh viên cùng lúc nhận liền giải nhất Giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học của Bộ Giáo dục và Đào tạo và giải nhất Giải thưởng “Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam - VIFOTEC” năm 2005 của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam, có đề tài nghiên cứu được công bố về ảnh hưởng của bức xạ sóng siêu cao tần đến số lượng và chất lượng tinh trùng của chuột nhắt thực nghiệm và con người. Lần đầu tiên có đề tài công bố tác dụng của thuốc Medyphalamin làm hồi phục số lượng và chất lượng tinh trùng trên người.
“Hãy biết tự bảo vệ mình” là thông điệp nhóm tác giả muốn gửi đến mọi người trong xã hội hiện đại. Thay vì đút điện thoại di động vào túi quần, các bạn nên để điện thoại vào bao da và đeo vào thắt lưng, vừa lịch sự vừa an toàn. “Chúng mình sẽ tiếp tục ấp ủ ước mơ mở rộng đề tài nghiên cứu trên người khi chịu ảnh hưởng của sóng radar và điện thoại di động để đưa ra phương hướng điều trị cho người hiếm muộn” - cả nhóm quả quyết.
Thuốc Medyphalamin do Công ty Dược liệu TƯ 1 sản xuất và được Bộ Y tế cho phép lưu hành trên toàn quốc. Thuốc được chiết xuất từ loài thực vật có tên là Azolla Microphyla có thành phần hoá học gồm Flavonoid, Glucose, Fructose, nhiều loại axit amin không thể thay thế như Methionin, Cystein…, các vitamin nhóm B như B2, B12, C, PP và các nguyên tố vi lượng như Ca, P, Na, K, Mg, Mn, Fe…
Trung tâm công nghệ phôi (Học viện Quân y) với các khoa khám bệnh, xét nghiệm, nam học, lưu trữ các giao tử và phôi, di truyền và thụ tinh trong ống nghiệm. Theo TS Trần Văn Hanh, Giám đốc trung tâm Phôi, đã có gần 3.000 lượt người đến chữa bệnh ở Trung tâm Công nghệ Phôi từ năm năm qua và đã có hàng trăm đứa trẻ chào đời mang lại hạnh phúc cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn.
Số lượng và chất lượng tinh trùng của người làm việc tại các trạm radar (bảng 1)
Tác dụng của Medyphylamin đến sự hồi phục số lượng và chất lượng tinh trùng trên 20 bệnh nhân sau điều trị (bảng 2).
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 15, 20/2/2006, tr 6








