Sản xuất thiếu bền vững và những hệ lụy với môi trường
Hiện tượng hoang mạc hoá diễn ra ồ ạt
Theo điều tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong số 21 triệu hecta đất nông – lâm nghiệp đang sử dụng, có tới 9,34 triệu hecta đất hoang hóa, chủ yếu là đất trống đồi núi trọc. Hoang mạc hóa cục bộ xảy ra ở những dải cát dài và hẹp trải dài duyên hải miền Trung với diện tích khoảng 430.000ha. Trong đó, riêng Thừa Thiên - Huế có khoảng 15.750ha đất bị hoang hóa và xói mòn. Ngoài ra, một số tỉnh Tây Nguyên cũng gặp hiện tượng này. Đơn cử như ở Đắk Lắk có 455ha đất đồi núi không có rừng cây; 123.000ha đất đồi núi chưa sử dụng do bạc màu và nhiễm chất độc hóa học trong chiến tranh; 29.900ha đất mòn trơ sỏi đá. Đất bị rửa trôi 100 –120 tấn/ha, khoảng 70% diện tích đất nông nghiệp bị suy thoái do canh tác chưa hợp lý.
Lượng phân hóa học sử dụng cho 1ha gieo trồng ở Việt Nam (80 – 90 kg/ha) tuy không lớn so với thế giới (Hà Lan 758kg/ha, Nhật Bản 430kg/ha) nhưng vẫn tác động lớn đến môi trường đất. Việc sử dụng không đúng kỹ thuật dẫn đến tình trạng có trên 50% lượng đạm, 50% lượng kali và 80% lượng lân dư thừa, gây ô nhiễm đất, nước ngầm và nước mặt.
Các nguyên nhân gây hoang mạc hóa được xác định là do đói nghèo, gia tăng dân số, quỹ đất canh tác ít, phá rừng, biện pháp canh tác không bền vững, chăn thả gia súc quá mức, thể chế, chính sách chưa đầy đủ, kịp thời và đồng bộ... Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến suy giảm tài nguyên đất là mất rừng. Hiện nay, phần lớn rừng tự nhiên thuộc nhóm rừng nghèo, rừng nguyên sinh chỉ còn 0,57 triệu hecta. Khả năng phục hồi rừng chậm.
Ô nhiễm nước, không khí trầm trọng
Hàng năm, lượng hóa chất bảo vệ thực vật sử dụng trong sản xuất nông nghiệp khoảng 0,5 – 3,5 kg/ha/vụ. Ngoài ra, hoạt động của trên 1.450 làng nghề cũng tạo ra lượng chất thải lớn và hầu như không được xử lý. Tỷ lệ hố xí tự hoại và bán tự hoại chỉ đạt 32,5%, còn phổ biến nhiều hố tiêu không hợp vệ sinh cũng là yếu tố gây ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng.
Nguồn nước ngầm còn bị ô nhiễm bởi nước thải rò rỉ từ các hố tiêu hủy gia súc, gia cầm do việc chôn lấp không đúng quy cách. Nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải rất cao trong khi thời gian phân hủy của gia cầm trong hố kéo dài có thể tới vài năm. Những nơi chôn lấp vật nuôi bị dịch không có lót đáy và tiến hành đúng quy trình sẽ là hiểm họa lâu dài cho sự ô nhiễm đất và nước ở nông thôn.
Hiện nay, tỷ lệ người dân được dùng nước sạch ở nông thôn chỉ khoảng 40%. Có tới 80% số bệnh nhiễm trùng có liên quan đến nguồn nước bị ô nhiễm như các bệnh do vi-rút, giun sán, côn trùng, bệnh tả, lỵ trực khuẩn, thương hàn, tiêu chảy, các bệnh ngoài da, bệnh mắt,... Nguyên nhân chủ yếu do nông dân chưa có thói quen vệ sinh chuồng trại chăn nuôi, khử trùng tiêu độc, nguồn phân và nước thải có mặt ở khắp nơi.
Chăn nuôi là ngành có nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường không khí ở nông thôn. Theo thống kê, trong tổng số khí metan do chăn nuôi thải ra trên thế giới thì 74% sản sinh từ bò, 4,38% từ trâu, 5,1% từ dê, cừu, còn lại là các vật nuôi khác. Trong khi đàn gia súc luôn thiếu thức ăn thô xanh vào mùa khô và thức ăn còn nghèo đạm làm năng suất, chất lượng thịt, sữa thấp thì nguồn phụ phẩm nông nghiệp như vỏ bã dứa, vỏ và thịt quả càphê, thịt quả giả của điều, máu, xương, lông vũ,... còn đang rất lãng phí, thải hoặc xả ra môi trường, gây ô nhiễm trầm trọng.
Do hậu quả của ô nhiễm môi trường, hệ sinh thái nông nghiệp và giống cây trồng, vật nuôi truyền thống bị suy giảm. Diện tích trồng các giống lúa địa phương giảm 50%, số lượng giống lúa địa phương bị mất 80%. Đối với các loại ngô, đậu đỗ, các con số tương ứng là 75%, 50%; cây có củ 75%; chè 20%; cây ăn quả 50%.
Thay lời kết
Nông nghiệp Việt Nam đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để khắc phục hậu quả môi trường và phát triển bền vững, ngành nông nghiệp cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn nông dân trồng trọt và chăn nuôi theo hướng thâm canh, tập trung trên cơ sở đã được quy hoạch và thiết kế phù hợp với từng địa phương. Khuyến khích trồng trọt, chăn nuôi theo hướng đặc sản để bảo vệ nguồn gen nội địa, khai thác lợi thế vùng, xây dựng thương hiệu cho nông sản và nâng cao tính cạnh tranh trong xu thế hội nhập.