Rừng phòng hộ đầu nguồn - sự sống còn đối với thủy điện Sơn La
Điều hiển nhiên là muốn đủ nước cho hồ chứa phải có rừng phòng hộ đầu nguồn để vừa giữ nước, vừa điều tiết dòng chảy của sông Đà và chống bồi lắng làm giảm tuổi thọ của hồ chứa. Về mùa lũ, mực nước không vượt quá độ cao của đập và mùa khô cần tránh mực nước “chết“. Thực tế, trong các tháng 5, 6-2005 vừa qua, mực nước hồ Hoà Bình đã dưới mức nước “chết” (thấp dưới 80 m) gây thiếu điện nghiêm trọng cho miền Bắc. Tình trạng trên có nguyên nhân rất cơ bản là do rừng đầu nguồn bị tàn phá nghiêm trọng. Theo tài liệu về thủy văn rừng, chỉ có thảm thực vật- tấm áo giáp vững bền nhất- mới có đủ khả năng bảo vệ đất, lưu giữ nguồn nước lâu bền và mới có thể khắc phục được những diễn biến cực đoan của thiên nhiên.
Tại buổi làm việc ở tỉnh Yên Bái và thăm đồng bào bị lũ quét ở tỉnh Phú Thọ, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh: Đối với Yên Bái nói riêng, các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, việc bảo vệ rừng đầu nguồn là vấn đề sống còn, bởi rừng chính là cái đập lớn nhất giúp điều tiết nguồn nước trong mùa mưa.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của rừng phòng hộ đối với thiên nhiên nói chung và TĐSL nói riêng, vừa qua Chính phủ đã cho phép lập Dự án khôi phục rừng phòng hộ hồ chứa TĐSL. Kinh nghiệm của Liên Xô cũ, Trung Quốc và Tập đoàn Hydro Quebec (một tập đoàn điện lực lớn trên thế giới với hệ thống phát điện là thủy điện chiếm 95%) đều đã lập kế hoạch và quản lý tối ưu các hồ chứa và nguồn nước lớn. Họ xem rừng phòng hộ, hồ chứa là một bộ phận nằm trong phức hệ công trình của nhà máy thủy điện. Có nghĩa là nhà máy phải quản lý được nguồn nước, mà cụ thể là hệ thống rừng phòng hộ cho hồ chứa. Sản phẩm của rừng phòng hộ là nước. Và nước lại là nhiên liệu của nhà máy thủy điện.
Để thực sự phát huy tác dụng, trước hết, Dự án khôi phục rừng phòng hộ hồ chứa TĐSL phải được coi là một dự án đặc thù, khác với các dự án rừng phòng hộ thông thường trước đây đã xây dựng trên lưu vực sông Đà (trên địa bàn tỉnh Sơn La và Lai Châu ). Việc khảo sát thiết kế, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật phải phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của công trình TĐSL. Không những thế, cơ chế vốn đầu tư cũng phải khác. Không thể chỉ cấp vốn từ ngân sách thông thường, mà còn phải coi đây là một công trình có tính đặc thù được đầu tư từ nguồn vốn xây dựng cơ bản. Bởi lẽ sau này, vốn đầu tư ấy sẽ được thu hồi thông qua “Thuế tài nguyên nước”, chiếm từ 8% đến 12%/ tổng giá trị điện thương phẩm.
Áp dụng cơ chế trên, hiện nay, Nhà máy Thủy điện Hòa Bình đã nộp vào ngân sách khoảng 50 tỷ/năm gọi là “Thuế tài nguyên nước”. Theo tính toán sơ bộ, nếu hồ chứa TĐSL được rừng phòng hộ bảo đảm lưu lượng nước ổn định, nhà máy hoạt động hết công suất thì mỗi năm nhà máy cũng đóng góp hàng trăm tỷ đồng tiền thuế này cho ngân sách. Và chậm nhất 10 năm sau, vốn vay trồng rừng phòng hộ cho hồ chứa TĐSL sẽ được hoàn trả.
Dự án này có thể được coi là dự án mẫu để rút ra những bài học kinh nghiệm và áp dụng cho các nhà máy thủy điện đang xây dựng trong cả nước.
Nguồn: Hà Nội mới 13/3/06








