Rôbốt ngày càng giống người
Không hẳn vậy. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản vừa bắt đầu một chương trình hướng về “cuộc sống” các rôbốt. Các nhà sản xuất rôbốt sẽ buộc phải bổ sung các bộ phận cảm ứng cho sản phẩm của họ, nhờ vậy mà rôbốt không va chạm với con người. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản cũng qui định, rôbốt phải được thiết kế từ những chất liệu nhẹ hơn và mềm hơn so với hiện nay, để trong trường hợp xảy ra va chạm tình cờ, con người có cơ may thoát khỏi chấn thương. Mỗi rôbốt cũng sẽ được trang bị một công tắc ở vị trí dễ thấy.
Những rôbốt sử dụng trong lắp ráp ô tô ngày càng trở nên “gần con người” hơn. Một số rôbốt, chẳng hạn như Asimo của Honda (Nhật Bản) trông giống như một phi hành gia thu nhỏ. Chúng có tay, chân, còn mắt thì được thay thế bởi các camera, bộ não là computer. “Nhật Bản là thị trường tuyệt vời cho các rôbốt hình người” – GS. Krzystof Kedzior – nhà sinh học thuộc trường ĐH Bách khoa Vacsava (Ba Lan), nhận định - Đây là một xã hội với số lượng lớn người già - những người cần phải có rôbốt giúp việc nhà hoặc thực hiện các công việc hộ lý. Do vậy, các rôbốt phải có những đặc tính càng giống người càng tốt. Các nhà khoa học cố gắng tạo cho chúng không chỉ hình dạng mà cả cử chỉ điệu bộ hay giọng nói giống người”.
Chẳng bao lâu nữa, rôbốt sẽ có thể có cảm xúc như chúng ta. Tạp chí “Science” số ra mới đây thông báo rằng các nhà khoa học ở hai bang Nabraska và Virgina (Mỹ) đã thiết kế được loại rôbốt có xúc giác tinh tế hơn người.
Độ tinh tế của xúc giác được đo bởi chỉ số phân bố không gian. Đối với ngón tay người, chỉ số này là 40 micrômet. Điều đó có nghĩa là nhờ xúc giác, chúng ta có thể phân biệt được 2 hạt nhỏ, mỗi hạt có đường kính vẻn vẹn 40 phần triệu của mét. Cho đến hiện nay, các nhà sản xuất những chất liệu truyền cảm giác (chẳng hạn từ cánh tay rôbốt đến bộ óc điện tử của nó) mới chỉ thành công với “chỉ số nhạy cảm” là vài ba milimet mà thôi.
Tuy nhiên, các nhà bác học Mỹ đã tạo được một màng rất mỏng (độ dày chỉ vẻn vẹn 100 nanomet) và rất nhạy cảm với chỉ số phân bố không gian là 40 micromet – nghĩa là tương đương với độ nhạy ở đầu ngón tay người.
Rôbốt cần độ nhạy xúc giác cao như vậy để làm gì? Độ nhạy càng cao, các chi của rôbốt càng trở nên khéo léo. Chúng ta dễ dàng đánh giá được cách chúng ta cầm một vật gì đó đủ chặt (nhưng không quá chặt). Đối với những người bị mất tay, chân do tai nạn hay bị liệt do đau ốm thì rõ ràng phát minh vừa nói ở trên có thể trả lại cho họ khả năng điều khiển cơ thể, chẳng hạn như trong những hành vi thường ngày như buộc dây giày. (Tạp chí Science cho biết, khả năng này có thể xuất hiện ở một đứa trẻ 6 tuổi, nhưng chưa xuất hiện ở bất kỳ rôbốt nào). Nếu như chúng ta có thể tạo ra những bàn tay giả và phủ chúng bằng lớp “da nhân tạo” của các nhà khoa học Mỹ, rồi sau đó nối tay giả với não của bệnh nhân, thì rõ ràng đây là một bước ngoặt rất lớn trong ứng dụng công nghệ vào lĩnh vực y tế.
Từ vài chục năm nay, các nhà khoa học tìm cách tạo ra những chân tay giả có thể phản ứng trước những kích thích thần kinh từ não gửi đến. Hiện nay trên thị trường đã xuất hiện những cánh tay giả điều khiển bằng xung điện sinh học. Chúng có thể thực hiện những cử động đơn giản: nắm, gập khuỷu tay… “Để học được cách điều khiển được những cánh tay giả này, người bệnh phải mất rất nhiều thời gian. Do vậy, phần nhiều bệnh nhân mất cả 2 tay mới đeo những cánh tay giả này”. GS.Krzystof Kedzior giải thích.
Năm 2003, các nhà nghiên cứu Mỹ quyết định nối các điện cực từ cánh tay giải với não khỉ. Kết quả thật đáng ngạc nhiên – sau một thời gian ngắn luyện tập, con khỉ bắt đầu đối xử với cánh tay giả như cánh tay thứ ba của nó!
Tháng 3 năm 2006, các nhà khoa học Đức giới thiệu một dụng cụ mà nhờ nó có thể điều khiển máy tính chỉ bằng ý nghĩa. Các điện cực theo dõi xem trong não có xuất hiện các xung điện hay không rồi chuyển thông tin vào máy tính. Nhờ vậy người ta có thể điều khiển con trỏ chuột chạy trên màn hình mà không cắn chạm vào chuột hoặc bàn phím.
Các nhà khoa học Nhật Bản còn tiến xa hơn nữa. Vừa qua, họ đã trưng bày một bàn tay cơ khí, được nối với bộ não người và bắt chước các hoạt động của bàn tay thật. Bàn tay cơ khí đã thể hiện 3 biểu tượng trong trò chơi “oẳn tù tì” của trẻ em, đó là: kéo, búa và giấy. Sự kết hợp với bộ não được thực hiện nhờ giải pháp cộng hưởng từ. Nhược điểm của giải pháp này là người bệnh phải nằm trong một chiếc máy quét lớn. Người bệnh cử động bàn tay thật của mình, còn thiệt bị đo lượng máu lên não người đó sẽ chuyển thông tin tới máy vi tính. Chiếc máy vi tính này sẽ điều khiển cử động của bàn tay giả. Như vậy, đây là quá trình không mấy tiện lợi khi đem áp dụng trong thực tế. “Chúng tôi còn nhiều việc phải làm – Yukiyasu Kamitani thuộc Phòng thí nghiệm sinh học – thần kinh ở Kioto, một trong những người sáng tạo ra bàn tay giả, đã trò chuyện với tạp chí “New Scientist” về công việc sắp tới của nhóm. Ông cho biết: “Trong giai đoạn tới đây, chúng tôi sẽ cố gắng để bàn tay giả thực hiện những hoạt động sớm hơn bàn tay thật một chút”.
Liệu rằng cùng với tiến bộ kỹ thuật chúng ta có thể thay thế các bộ phận cơ thể bằng các bộ phận nhân tạo? Liệu rằng các rôbốt ngày càng trở nên giống người? GS.Krzystof Kedzior cho biết: “Theo tôi, khoa học sẽ đi về hướng kích thích cơ thể sống để nó tự tái tạo các bộ phận, cơ quan bị hư hỏng. Gần đây, các nhà bác học Mỹ đã nuôi cấy thành công bàng quang trong phòng thí nghiệm. Chắc chắn, các bộ phận thay thế cơ học sẽ phải nhường chỗ cho các bộ phận thay thế sinh học”.
Nguồn: New Scientist, gdtd.com.vn, số 73,20/06/2006








