Rau răm
Tất cả những điều này chỉ truyền miệng, chưa được xác minh. Nhưng hậu quả là một số mày râu ngại Rau răm có trong những món ăn truyền thống không thể thiếu Rau răm.
Trong sách xưa, chúng tôi chưa thấy nói đến tác dụng sáp tinh của Rau răm, mà chỉ nói Rau răm có vị cay ấm khu hàn, trừ thấp, ôn ấm tỳ vị, tiêu thực, trừ chướng thống, cầm tả lỵ. Bản thảo cương mục nói: Rau răm trừ độc trong tôm cá. Nam dược thần hiệu nói: Trừ cước khí sưng chân, chữa rắn, rết, côn trùng cắn, chàm, ghẻ (để đắp, rửa). Các sách về sau còn dùng Rau răm để trừ giun sán, chữa thiếu máu do thiếu sắt, điều hoà kinh nguyệt. Người có thai cấm dùng vì có thể sẩy thai. Người Campuchia cũng dùng Rau răm làm gia vị, ngoài ra còn dùng để lợi tiểu, hạ sốt, chống nôn…
Về thành phần hoá học 100g Rau răm có 290mg calcium, 71mg phosphor, 279g kalium, 138mg magnesium, 10mg mangan, 7mg sắt, 10mg vitamin C, 1mg vitamin PP, cho 30 Calo. Toàn cây chứa một tinh dầu màu vàng rơm nhạt, mùi thơm mát dễ chịu. Năm 1985, Roser Moser nghiên cứu tinh dầu Rau răm lấy giống ở Việt Nam đem về trồng ở Thụy Sĩ. Trên sắc ký khí khối phổ thấy có tới 38 pic trong đó chủ yếu (85%) là các aldehyd aliphatic và alcool.
Rau răm dùng làm thuốc chủ yếu ở dạng tươi để phát huy tác dụng của tinh dầu.
Một số công dụng chữa bệnh đã được ghi trong sách là:
Chữa tim hồi hộp : tim lợn thái mỏng tẩm gia vị, xào chín rồi cho Rau răm đã thái chỉ, ăn nóng với cơm.
Trẻ em còn bú bị rôm : cá diếc nấu canh với Rau răm.
Say nắng bán hôn mê : Rau răm giã lấy nước cốt, hoà thêm nước cho uống.
Thiếu máu do thiếu sắt : ăn các loại món ăn nấu từ nguồn động vật với Rau răm.
Nhiễm độc thức ăn gây đau bụng tiêu chảy : Rau răm dùng nhai nuốt cả nước và cái hoặc sắc nước Rau răm uống.
Tẩy sán xơ mít : một nắm Rau răm rửa sạch giã vắt nước cốt hoà thêm nước, uống vào buổi sáng.
Lang ben, hắc lào, chàm, trĩ : Rau răm giã nhuyễn với nước đắp, xoa.
Rắn, rết cắn : giã nhuyễn lấy nước uống, đắp giã.
Nguồn: T/c Thuốc - Sức khoẻ, số 303, 1/3/2006, tr 17