Quan hệ thầy - trò qua tục ngữ người Việt
Để có thể lí giải được điều này, trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu nội dung của các câu tục ngữ đó.
Tục ngữ khẳng định vai trò quan trọng của người thầy:
- Không thầy đố mày làm nên. [1, tr.1486]
Đó là vai trò truyền thụ kiến thức, dạy dỗ học trò. Không có thầy thì khó có thể làm nên sự nghiệp:
- Dốt kia thì phải cậy thầy, vụng kia cậy thợ thì mày làm nên.[1, tr.905]
- Dốt nát tìm thầy, bóng bẩy tìm thợ.[1, tr.906]
Chịu khó học hỏi, ghi tạc lời thầy thì sẽ mau chóng nên người. Sự hiểu biết sẽ giúp ta tự tin trong cuộc sống, không phải khúm núm, sợ sệt kẻ khác:
- Lạy lục khúm núm không bằng ghi tạc lời thầy. [1, tr.1565]
Và người thầy thì luôn mong muốn học trò của mình giỏi giang:
- Cha muốn cho con hay, thầy muốn cho trò khá.[1, tr.427]
Ở đây, cũng cần bàn rõ nghĩa của hai khái niệm thầy, trò. Không phải cứ có lớp học, có người giảng bài, có người mang sách vở tới ngồi nghe, ghi chép mới là thầy - trò. Khổng Tử nói: “ Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sưyên” (nghĩa là: Ba người cùng đi ắt có thầy ta ở đó).Điều đó có nghĩa là trường học ấy có thể có mặt ở bất cứ nơi đâu: trên đường đi, trên đồng ruộng, khi giao tiếp, làm lụng... Khi có người truyền cho ta những hiểu biết, những kinh nghiệm hay cách thức làm một việc gì đó cũng là khi có thầy và trò.
Người thầy có vai trò quan trọng như vậy nên nhân dân ta rất kính trọng thầy:
- Nhứt nhựt vi sư. [2, tr.2102]
(Một ngày cũng là thầy)
- Nhất tự vi sư, bán tự vi sư.[2, tr.2073]
(Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy)
- Một chữ nên thầy.[2, tr.1816]
- Một chữ nên thầy một ngày nên nghĩa. [2, tr.1816]
- Có thờ thầy mới được làm thầy.[1, tr.689]
- Trọng thầy lại được làm thầy.[2, tr.2762]
- Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. [2, tr.1889]
- Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.[2, tr.1897]
Tuy nhiên, cũng có lúc sự kính trọng này có pha thêm chút vui đùa:
Muốn sang thì bắc cầu ô
Muốn con hay chữ gả cô cho thầy.[2, tr.1898]
Thầy là người có công dạy dỗ, truyền đạt kiến thức cho trò. Bởi vậy, mà học trò phải biết ơn thầy, ứng xử với thầy phải đúng theo lễ giáo:
- Tiên học lễ, hậu học văn.[2, tr.2625]
(Trước học lễ giáo, sau mới học kiến thức)
- Mồng một tết cha, mồng ba tết thầy.[2, tr.1803]
Có thầy, có bạn là một môi trường học tập thuận lợi. Với môi trường đó, người học trò nào chịu khó học hành ắt sẽ thành công:
- Ở đây gần bạn gần thầy, có công mài sắt có ngày nên kim.[2, tr.2209]
- Trâu kén cỏ trâu gầy, trò kén thầy trò dốt.[2, tr.2728]
Tuy nhiên, không chỉ học ở thầy mà còn phải học cả ở bạn bè:
- Học sư bất như học hữu.[1, tr.1364]
- Học thầy chẳng tầy học bạn. [1, tr.1364].
Như vậy, qua khảo sát Kho tàng tục ngữ người Việtchúng ta thấy, người bình dân xưa không quan tâm nhiều đến người thầy, đến việc học cũng như quan hệ thầy trò. So với các vấn đề khác như kinh nghiệm lao động sản xuất, chăn nuôi, quan hệ gia đình,... chủ đề này được đề cập với tỉ lệ rất nhỏ (0,12%). Điều này có thể lí giải được bởi Việt Nam là một nước nông nghiệp, hơn 90% dân số là nông dân. Dưới thời phong kiến, số người được đi học rất ít. Việc học hành là mối quan tâm của thiểu số, bởi vậy, tục ngữ ít đề cập đến đề tài này. Mặc dù vậy, qua khảo sát chùm tục ngữ phản ánh quan hệ thầy – trò, chúng ta có thể thấy: tuy rằng số lượng tục ngữ thuộc chủ đề này rất nhỏ nhưng nội dung mà nó phản ánh hầu hết theo xu hướng tích cực. Đó là sự kính trọng, lòng biết ơn người thầy, sự khuyên nhủ học trò phải gắng sức học hành và biết lễ nghĩa, là đạo lí của học trò đối với thầy.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt,tập 1, Nxb. Văn hoá - Thông tin.
2. Nguyễn Xuân Kính chủ biên(2002), Kho tàng tục ngữ người Việt,tập 2, Nxb. Văn hoá - Thông tin.
Nguồn: hoidantochoc.org.vn (12/12/06)