Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 11/02/2010 17:42 (GMT+7)

Phương thức chăn nuoi vịt, ngan - bảo vệ môi trường

Mặc dù vịt, ngan là thuỷ cầm nhưng nuôi vịt, ngan theo phương thức nuôi khô hoàn toàn không cần nước bơi lội, chỉ cần nước uống, có 3 phương thức nuôi trên khô đối với vịt, ngan: nuôi nhốt trong chuồng; nuôi nhốt trong chuồng và có sân chơi; nuôi nhốt trong vườn cây. Nếu nuôi vịt, ngan trên khô sẽ giảm được chi phí và không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của cả thịt và trứng, vẫn bảo đảm được năng suất. Nuôi khô giảm được chi phí 20 – 30 gam thức ăn/ quả trứng so với có nước bơi lội mà không có thức ăn tận dụng. Nhưng nơi có vườn thì có thể nuôi khô trong vườn nhưng phải quây lại không thả tự do.

Đến nay phương thức nuôi nhốt trên khô không cần nước bơi lội áp dụng cho các vùng sinh thái khác nhau đều phù hợp. Trong điều kiện hiện nay dịch cúm gia cầm đang đe doạ thì phương thức nuôi nhốt trên khô là một phương thức nuôi cần được áp dụng để bảo đảm cho công tác an toàn dịch bệnh, tránh lây lan, việc phòng bệnh cũng thuận lợi, kiểm soát tốt được dịch bệnh, giảm được ô nhiễm môi trường. Những vùng có tập quán nuôi vịt, ngan theo cổ truyền cần thay đổi và nên áp dụng phương pháp nuôi trên khô không cần có nước để bơi lội.

1. Các phương thức nuôi vịt, ngan nhốt trên khô không cần nước bơi lội

a. Phương thức nuôi vịt, ngan kết hợp với trồng cây

Ở những nơi có vườn cây thì đều sử dụng được ở cả trong những vườn cây ăn quả và cây lâu năm. Khi nuôi vịt, ngan nhốt trong vườn cây vừa bảo đảm cho cỏ đỡ mọc đồng thời nguồn phân của vịt, ngan thải ra sẽ đảm bảo chất dinh dưỡng cho cây; cây cũng tạo bóng mát cho vịt, ngan khi trời nóng bức.

Khi nuôi trong vườn cây cần chú ý:

- Không nuôi vịt, ngan nhốt trong vườn cây thân mềm vì sẽ làm hỏng cây, do vịt, ngan dẫm đạp.

- Phải có rào chắn để quây vịt, ngan trong khu vực, vườn cây phải có độ dốc thích hợp để không bị đọng nước khi trời mưa làm mất vệ sinh. Vườn cây cũng không được dốc quá làm khó khăn cho việc đi lại của vịt, ngan và đặc biệt đối với vịt, ngan sinh sản sẽ khó khăn cho việc giao phối.

- Vườn cây phải có độ cao của cây phù hợp trên 1m, nên cây thấp quá vịt, ngan sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của cây, đặc biệt là làm cây hỏng chồi và lá cây.

b. Phương thức chăn nuôi vịt, ngan nhốt trong chuồng

Đây là phương thức nuôi thâm canh: nuôi nền hoặc nuôi trên sàn, cần chú ý:

- Chuồng phải có độ thông thoáng tốt để không làm xấu đi tiểu khí hậu chuồng nuôi.

- Những vị trí đặt máng uống cũng phải thoát nước nhanh vì khi vịt, ngan uống nước hay vầy nước hoặc làm vẩn đục nước.

- Có hố chứa nước thải khi vệ sinh chuồng trại sau đó phải được xử lý, không để nước ứ đọng.

c. Phương thức nuôi vịt, ngan nhốt trong chuồng có sân chơi

- Sân chơi phải láng xi măng cát hoặc lát gạch để tiện cho việc cọ rửa và làm vệ sinh hàng ngày. Diện tích sân chơi phải gấp 2 – 3 lần diện tích chuồng nuôi.

- Máng ăn để trong chuồng nuôi, máng uống để ngoài sân chơi. Mùa hè phải có bóng râm hoặc che nắng cho máng uống.

- Đối với vịt, ngan sinh sản thường giao phối trên khô nên sân chơi phải luôn sạch sẽ để không làm nhiễm trùng gai giao phối của con đực.

2. Các phương thức nhốt vịt, ngan có nước bơi lội

Không thả vịt, ngan tự do ra ao, hồ, cũng không nuôi nhốt với vịt, ngan trên sông, suối sẽ gây ô nhiễm môi trường và không an toàn dịch bệnh. Chỉ nên quây nhốt vịt, ngan trên ao hoặc quây nhốt vịt, ngan trong ruộng lúa ở khu vực cố định, không thả chạy đồng tự do.

Người chăn nuôi cần hiểu biết và phát huy những kinh nghiệm, lựa chọn phương thức nuôi vịt, ngan thích hợp trong điều kiện thực tế của từng nông hộ và của từng địa phương. nhằm bảo vệ môi trường, cân bằng hệ sinh thái, an toàn dịch bệnh và bảo vệ sức khoẻ con người.

a. Phương thức nuôi vịt, ngan nhốt trên hồ, ao

Có thể làm chuồng nền trên bờ hồ, ao hoặc làm chuồng sàn trên mặt nước. Với phương thức chăn nuôi kết hợp này, có mấy điều cần lưu ý:

- Nguồn phân của vịt, ngan thải ra và thức ăn thừa của vịt, ngan làm thức ăn cho cá.

- Vịt ngan bơi lội làm tăng lượng oxy trong nước giúp cho cá hô hấp tốt hơn.

- Vịt, ngan ăn cá nhỏ cho nên không thả vịt, ngan vào ao cá giống.

- Vịt, ngan mò có thể làm sạt lở bờ ao, hồ do đó phải ngăn bờ bằng phên hoặc lưới cách bờ khoảng 1 m.

- Vịt, ngan có thể làm ảnh hưởng môi trường nước, do đó phải có diện tích mặt nước chăn thả phù hợp, mỗi con vịt, ngan cần 4 – 5 m2 mặt nước hồ ao.

b. Phương thức nuôi vịt, ngan nhốt trong ruộng lúa

- Phải nhốt vịt, ngan cố định ở những khu ruộng lúa, không được thả tự do.

- Nguồn phân của vịt, ngan thải ra làm phân bón cho lúa.

- Đối với ruộng lúa vịt, ngan khi mò có tác dụng sục bùn và làm sạch cỏ cho lúa.

- Vịt, ngan ăn sâu bọ côn trùng còn có tác dụng đuổi chuột.

- Vịt, ngan có thể làm hỏng lúa mới cấy hoặc ăn thóc khi lúa chín, do đó không nên thả vịt, ngan vào ruộng lúa trước khi lúa chưa bén rễ hoặc khi lúa đã trổ bông.

- Diện tích ruộng lúa phải đảm boả 8 – 10 m2/con.

3. Chuồng, trại nuôi vịt, ngan

Đối với phương thức chăn nuôi cổ truyền trong nông hộ mang tính chất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp cần phải nuôi nhốt lại và làm chuồng nuôi độc lập với nhà ở.

Đối với chăn nuôi gia trại, trang trại theo hình thức bán thâm canh và thâm canh đối với quy mô vừa và lớn, cần phải xây dựng chuồng trại biệt lập với khu dân cư, cách xa khu đô thị, đường giao thông, khu công nghiệp, trường học, bệnh viện. Khu chăn nuôi phải có tường rào xung quanh, nên quy hoạch có vành đai an toàn, không nuôi chung với các gia súc, gia cầm. Xây dựng chuồng trại phải phù hợp cho từng giai đoạn của vịt, ngan; chuồng nuôi vịt, ngan con, chuồng nuôi vịt, ngan hậu bị, chuồng nuôi vịt, ngan sinh sản.

Vị trí gia trại, trang trại phải cao ráo, sạch sẽ và thoáng mát, điều kiện chuồng trại phải phù hợp với quy mô chăn nuôi. Xây dựng chuồng trại phải có đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho công tác vệ sinh phòng dịch và an toàn sinh học. Riêng nuôi nhốt nên có sân chơi cho vịt, ngan (chuồng thông thoáng tự nhiên) sẽ thuận lợi cho việc vệ sinh thường xuyên và xử lý môi trường đồng thời chi phí cũng giảm thiểu so với nuôi chuồng kín. Nếu có sân chơi thì diện tích sân chơi gấp đôi diện tích chuồng nuôi là phù hợp.

Căn cứ vào số lượng định nuôi, phương thức nuôi, loại vịt và ngan để xây dựng chuồng trại cho thích hợp.

Chuồng cho vịt, ngan nên làm đơn giản không cần kiên cố phải đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đông, chuồng không bị mưa hắt, nắng không chiếu vào ổ đẻ. Có thể làm bằng lưới, lá hoặc làm chuồng sàn trên ao, hồ, trên bè tre, nứa.

Diện tích chuồng nuôi căn cứ vào mật độ để xác định nhu cầu làm chuồng cho phù hợp. Nhu cầu mật độ chuồng nuôi như sau (con/ m2).

Tuổi

Nuôi không cần bơi lội

Nuôi có nước bơi lội

Nuôi trong chuồng

Chuồng có sân chơi

Chuồng + vườn cây

Chuồng nhốt trên ao, hồ

Chuồng nhốt trong ruộng lúa

Tuần đầu

30 - 35

30 - 35

30 - 35

30 - 35

30 - 35

2 - 4 tuần

10 - 15

15 - 20

15 - 20

15 - 20

15 - 20

5 - 8 tuần

5 - 6

6 - 8

8 - 10

8 - 10

8 - 10

Hậu bị

3

4 - 5

5 - 6

5 - 6

5 - 6

Sinh sản

3

4

4

4

4

Trên đây, mật độ nuôi thích hợp cho từng tuần tuổi và điều kiện nuôi, nếu mật độ cao quá làm giảm năng suất và tiểu khí hậu chuồng nuôi xấu đi. Nhưng, nếu mật độ thấp sẽ không kinh tế khi sử dụng chuồng nuôi.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh
Đại hội Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam (VUSTA) nhiệm kỳ 2025–2030 được tổ chức thành công vào sáng ngày 21/7. Tại Đại hội, đại diện Đoàn Thanh niên VUSTA đã có bài phát biểu chúc mừng đại hội. Bí thư Đoàn Thanh niên Lê Thị Thủy khẳng định: “Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh và luôn xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong công cuộc đổi mới đất nước”.
Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương
Hướng tới chào mừng Đại hội Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương và biểu trưng (logo) Đại hội đại biểu Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030 được chính thức khởi động từ ngày 18/7/2025.
Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tập hợp, đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Kể từ khi Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) được thành lập ngày 26/03/1983, Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam đã trải qua 9 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội đã thực sự trở thành những mốc son quan trọng, đánh dấu bước phát triển cả về tư duy chính trị lẫn phương thức hoạt động của toàn hệ thống.