Phương pháp luận Atlas công nghệ và ứng dụng cho đánh giá trình độ công nghệ
Phương pháp luận Atlas công nghệ
Phương pháp luận Atlas công nghệ là kết quả của Dự án Atlas công nghệ - Technology Atlas Project được khởi xướng trên cơ sở của tiên đề cho rằng: Công nghệ là biến số chiến lược quyết định sự phát triển, tăng tốc KT-XH trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế, môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng. Đây là dự án do Trung tâm Chuyển giao Công nghệ châu Á - Thái Bình Dương (APCTT), thuộc ESCAP nghiên cứu và đã ban hành bộ tài liệu “Nguyên lý phát triển dựa trên cơ sở công nghệ” áp dụng cho các quốc gia trong khu vực từ năm 1986-1988.
Mục tiêu chính của “Technology Atlas Project” là đưa ra một công cụ hỗ trợ ở dạng một bộ tài liệu phương pháp luận để hợp nhất các công việc, xem xét vấn đề công nghệ trong quá trình lập kế hoạch phát triển. Dự án trình bày các biện pháp và cung cấp phương tiện nhằm giới thiệu một cách rộng rãi các cách tiếp cận phân tích để đề ra và hoàn thiện các chính sách, kế hoạch phát triển công nghệ ở mỗi đơn vị kinh tế, ngành; mỗi quốc gia.
Với tựa đề chung là “Nguyên lý phát triển dựa trên công nghệ”, nội dung của phương pháp luận Atlas công nghệ bao gồm việc phân tích, đánh giá chỉ số công nghệ (hàm lượng công nghệ, môi trường công nghệ, trình độ công nghệ, năng lực công nghệ và nhu cầu công nghệ) được xem xét ở ba quy mô khác nhau.
l Ở cấp doanh nghiệp: Các chỉ số công nghệ được xem xét bao gồm các thành phần công nghệ (thành phần kỹ thuật - Technoware (T), thành phần con người - Humanware (H), thành phần thông tin - Infoware (I), thành phần tổ chức - Orgaware (O), kết quả đóng góp trực tiếp của bốn thành phần này trong xác định hàm lượng công nghệ gia tăng. Đây là cơ sở để đánh giá hàm lượng công nghệ, năng lực công nghệ và chiến lược công nghệ.
l Ở cấp độ của một ngành công nghiệp: Thông thường ở quy mô của một ngành công nghiệp, các đặc trưng công nghệ được đánh giá là các nguồn lực công nghệ và cơ sở hạ tầng công nghệ.
l Ở quy mô một quốc gia: Với quy mô là một quốc gia, những chỉ số công nghệ được xem xét là môi trường công nghệ và nhu cầu công nghệ. Trên thực tế, việc nghiên cứu đánh giá môi trường công nghệ cũng có thể được xem xét ở quy mô địa phương, vì ngay với quy mô nhỏ hơn mức quốc gia vẫn tồn tại những yếu tố môi trường có tính đặc thù mà nếu chỉ khai thác môi trường công nghệ ở cấp quốc gia thì rất khó được đề cập đến. Việc xem xét môi trường công nghệ ở quy mô nào phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu của từng đề tài.
Để hợp nhất việc xem xét công nghệ với quá trình kế hoạch hoá phát triển KT-XH có ý nghĩa, thì điều kiện cơ bản là các nhà nghiên cứu về kinh tế và công nghệ phải hỗ trợ lẫn nhau khi tiến hành các phân tích. Nếu sử dụng 4 hình thức biểu hiện của công nghệ theo cách phân chia theo phương pháp Atlas (T, H, I, O) ở trên làm cơ sở để điều tra, thì có thể đạt được sự bổ sung cho nhau giữa kế hoạch hoá kinh tế thông thường và kế hoạch hoá dựa trên công nghệ ở cấp công ty, phân ngành, ngành, tỉnh, quốc gia... tuỳ theo mức độ dự án thực hiện.
Với những ưu điểm lớn trong việc đánh giá, quản lý và hoạch định chiến lược công nghệ, phương pháp luận Atlas công nghệ đã được sử dụng làm cơ sở cho nhiều dự án về công nghệ, đặc biệt là các dự án ở các nước đang phát triển.
Dự án điều tra, đánh giá hiện trạng và xây dựng cơ sở dữ liệu về năng lực công nghệ quy mô 500 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là đề tài nghiên cứu về công nghệ ở quy mô của một tỉnh. Tuy nhiên, việc điều tra, đánh giá các yếu tố như hàm lượng công nghệ được tiến hành ở quy mô doanh nghiệp và tổng quan cho một ngành, trên cơ sở đó tổng hợp cho toàn tỉnh.
Đánh giá hàm lượng công nghệ
Trong Atlas công nghệ, phương pháp phân tích hàm lượng công nghệ tập trung vào khía cạnh công nghệ - cách tiếp cận định lượng để đo mức độ đóng góp của mỗi thành phần trong 4 thành phần công nghệ tại một phương tiện chuyển đổi.
T - Phần Kỹ thuật có thể coi như hình thức biểu hiện về mặt vật thể của công nghệ, bao gồm tất cả các phương tiện vật chất cần thiết cho hoạt động chuyển đổi như: Dụng cụ, thiết bị, máy móc, các kết cấu và xưởng máy…
H - Phần Con người là hình thức biểu hiện về mặt con người của công nghệ, bao gồm các năng lực cần thiết mà con người đã tích luỹ được cho các hoạt động chuyển đổi.
I - Phần Thông tin là hình thức biểu hiện về mặt tư liệu của công nghệ, bao gồm toàn bộ các dữ kiện và các số liệu cần cho các hoạt động chuyển đổi, như: Các bản thiết kế, tính toán, đặc tính, quan sát, phương trình, biểu đồ, lý thuyết…
O - Phần Tổ chức là hình thức biểu hiện về mặt thể chế của công nghệ, bao gồm các cơ cấu tổ chức cần thiết cho hoạt động chuyển đổi, như: Sự phân chia nhóm, phân trách nhiệm, hệ thống các tổ chức, các mạng lưới quản lý…
Phân tích hàm lượng công nghệ có thể biết được điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp liên quan đến công nghệ và các động lực chuyển đổi ở cấp công ty, cho phép xác định các ưu tiên trong phân bổ nguồn lực nhằm nâng cấp các thành phần công nghệ. Việc này không bị ảnh hưởng bởi sự không hoàn chỉnh của thị trường công nghệ và có thể bổ sung cho việc phân tích tài chính thông thường. Hơn nữa, việc phân tích hàm lượng công nghệ có thể làm tăng khả năng sàng lọc kho công nghệ quốc gia và nâng cao năng lực quốc gia về mặt đánh giá công nghệ khi hợp tác với nước ngoài.
Để đo lường được hàm lượng công nghệ của một công ty, người ta dùng phương pháp trắc lượng công nghệ để đo lường mức độ đóng góp của 4 thành phần công nghệ trong một quá trình chuyển đổi xác định. Hệ số đóng góp của công nghệ (TCC) cho quá trình chuyển đổi có thể được tính theo công thức sau:
TCC = Tbt. Hbh. Ibi. Obo (1)
Trong đó T, H, I, O là mức độ đóng góp riêng tương ứng của từng thành phần công nghệ; bt, bh, bi, bo là cường độ đóng góp của các thành phần công nghệ tương ứng. Để tính được TCC người ta tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Đánh giá cấp bậc tinh xảo của 4 thành phần công nghệ. Thông qua thu thập thông tin từ doanh nghiệp và thủ tục cho điểm bởi các chuyên gia, tiến hành xác định mức độ tinh xảo của các thành phần công nghệ.
Bước 2: Đánh giá trình độ hiện đại. Khi có được giới hạn cấp bậc tinh xảo trên, dưới của 4 thành phần công nghệ thì vị trí của mỗi thành phần công nghệ trong khoảng giới hạn này phụ thuộc vào trình độ hiện đại của nó. Trình độ hiện đại của các thành phần công nghệ được đánh giá thông qua các tiêu chí như: Xuất xứ công nghệ, năm sản xuất, lắp đặt, suất tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu, trình độ học vấn, kinh nghiệm công tác, hạ tầng thông tin, mục đích sử dụng máy tính...
Bước 3: Xác định những đóng góp của thành phần công nghệ trên cơ sở các giới hạn của cấp bậc tinh xảo và điểm số trình độ hiện đại đã được xác định. Đây là bước tính toán điểm số, tổng hợp, xác định hệ số từ tập nhiều tiêu chí khác nhau.
Bước 4: Đánh giá cường độ đóng góp của các thành phần công nghệ. Ở đây đề xuất phương pháp đánh giá bằng cách sử dụng cách tiếp cận ma trận so sánh từng đôi một. Việc xác định các hệ số b sẽ được thực hiện cho từng ngành với sự trợ giúp của phần mềm Expert Choice cũng như sự tham gia đóng góp của các chuyên gia đầu ngành.
Bước 5: Tính toán hệ số TCC. Sử dụng các giá trị T, H, I, O và các cường độ đóng góp của các thành phần công nghệ (bt,h,i,o) có thể tính được TCC bằng công thức (1) ở trên. TCC của công ty cho biết sự đóng góp của công nghệ của toàn bộ hoạt động chuyển đổi đầu vào, đầu ra của công ty.
Một số kết quả nghiên cứu tại Đồng Nai
Cuối năm 2003, Bộ KH&CN giao cho Trung tâm CRC triển khai thực hiện đề tài: “Điều tra đánh giá hiện trạng và xây dựng cơ sở dữ liệu về năng lực công nghệ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài bao gồm: Đưa ra báo cáo tổng hợp về thực trạng trình độ công nghệ của 500 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, dựa trên dữ liệu điều tra cụ thể và phân tích có hệ thống; thiết lập cơ sở dữ liệu và xây dựng trang Web về trình độ công nghệ của các doanh nghiệp trên địa bàn phục vụ cho công tác quản lý, nghiên cứu hoạch định chính sách phát triển KT-XH của tỉnh; tạo nền tảng để tiến tới tiếp tục phân tích, đề xuất phương hướng đầu tư, phát triển công nghệ tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn 2005-2010; từng bước hoàn thiện việc xây dựng phương pháp tổng quát và hiệu quả để Bộ KH&CN có thể ứng dụng vào công tác quản lý, phân tích đánh giá hiện trạng và xây dựng năng lực công nghệ của các tỉnh, thành trong toàn quốc.
Đề tài đã hoàn thành đúng tiến độ và đạt được các mục tiêu đề ra, có những đóng góp rất cụ thể về mặt khoa học cũng như ứng dụng thực tiễn:
- Đã vận dụng thành công phương pháp Atlas công nghệ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam . Đề tài không những đã tính toán được một cách định lượng các chỉ số T, H, I, O và TCC của từng doanh nghiệp được khảo sát mà còn tính toán được các chỉ số trung bình của các nhóm ngành và trung bình chung của toàn tỉnh. Các chỉ số được trình bày dưới dạng bảng số liệu hoặc dưới dạng các biểu đồ, thuận tiện cho việc so sánh, đánh giá.
- Bước đầu xây dựng được hệ thống thang điểm cho phép lượng hoá các thành phần công nghệ.
- Xây dựng được quy trình điều tra thu thập thông tin một cách khoa học và sát điều kiện thực tế, tiến hành điều tra thành công, thu thập được thông tin đầy đủ của 528/588 doanh nghiệp được khảo sát.
- Xây dựng được cơ sở dữ liệu dạng trang Web thuận tiện cho việc cập nhật, lưu trữ, xử lý và truy cập thông tin phục vụ cho công tác tra cứu, tìm kiếm thông tin và quản lý của các đối tượng khác nhau. Với cơ sở dữ liệu bao gồm 120 thông tin về doanh nghiệp được lưu trữ và có thể truy cập một cách thuận tiện, giúp cho các nhà quản lý, các cơ quan hoạch định chính sách nắm được khá tường tận về các đối tượng mình cần quản lý để từ đó có được những giải pháp khuyến khích, hỗ trợ và định hướng phát triển các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp, thông qua truy cập cơ sở dữ liệu có thể tự mình đánh giá hiện trạng trình độ công nghệ, có thể so sánh doanh nghiệp mình với trung bình của ngành, của tỉnh, biết trình độ của mình đang ở đâu để từ đó có các định hướng đổi mới.
- Bước đầu đề xuất một số công cụ cho phép sử dụng các kết quả đánh giá về trình độ công nghệ vào việc hoạch định các chiến lược phát triển công nghệ và chiến lược phát triển KT-XH của các doanh nghiệp, ngành cũng như các địa phương.
- Đưa ra được ý tưởng điều tra nhu cầu đổi mới và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp được khảo sát. Qua đó thử nghiệm xây dựng “chợ công nghệ” từ trang Web cơ sở dữ liệu.
- Trong quá trình thực hiện, đề tài đã huy động được nhiều nhà khoa học và cán bộ của các ban/ngành và Sở KH&CN Đồng Nai tham gia. Các khoá tập huấn chuyển giao phương pháp đánh giá cũng như quản lý và cập nhật cơ sở dữ liệu cho Sở KH&CN Đồng Nai là cơ sở cho sự phát triển bền vững và phát huy kết quả nghiên cứu sau khi kết thúc đề tài.
Nguồn: Tạp chí Hoạt động khoa học, số 08/2006