Phát hiện làng ung thư mới
Kỳ I: Tang tóc Yên Tập
Chúng tôi đến Yên Tập huyện Cẩm Khê, Phú Thọ vào một ngày cuối đông, cái lạnh của mùa đông càng làm tăng thêm sự lạnh lẽo, vắng vẻ của người dân ở khu 2 trong xã. Vẻ heo hút khác hẳn các khu dân cư còn lại khiến nhiều người không khỏi ngạc nhiên.
Tử thần gõ cửa từng nhà
Lại có thêm một người dân mắc bệnh ung thư ở xóm 2 bị bệnh viện trả về hôm qua (9/1/2006) và đang nằm thoi thóp chờ chết”. Ông Phan Kim Ninh - Trạm trưởng Trạm y tế xã Yên Tập mở đầu câu chuyện về thảm hoạ ung thư ở xã mình. Lần giở cuốn “Sổ tử” ông Ninh xác nhận trong vòng 3 năm trở lại đây đã có đến 16 người chết vì căn bệnh ung thư quái ác. Trọng điểm của “làng ung thư” này nằm ở khu 2, một khu vỏn vẹn 9 hộ gia đình sinh sống.
Người bệnh xấu số ấy là anh Đỗ Kế Tấn (48 tuổi). Anh Tấn giờ chỉ còn da bọc xương. Đôi mắt buồn giờ đây lại thêm hoắm sâu vì những ngày không ngủ được vì đau đớn. Anh Tấn thì thào kể về triệu chứng đau của mình, tức ngực không ăn được gì cả… Trước đó, ông nội anh là Đỗ Văn Súc, bố anh là ông Đỗ Văn Nơi cùng 2 người anh trai là Đỗ Quế Phượng, Đỗ Đức Trí đã bị chết bởi ung thư gan. Giờ tử thần đã gõ cửa đòi sinh mạng anh và các con anh. Từ ngày ở viện về, gia đình vẫn giấu nhẹm chuyện anh bị ung thư để anh an lòng dưỡng bệnh. Chị Đỗ Thị Tuyến, vợ anh Tấn sụt sùi nước mắt khi kéo chúng tôi ra sân kể về nỗi đau của gia đình. Kinh tế khó khăn lại thêm căn bệnh đeo đuổi chồng con, chị chẳng biết phải làm sao để xoay sở. Gánh nặng gia đình lại oằn trên vai những người vợ, người con, những người cha phát hiện được bệnh một cách chính thức vì cha lần nào đi khám.
Khu hai có những gia đình mà ung thư đã trở thành căn bệnh di căn, cả 3 đời cùng bị chết bởi ung thư gan, phổi. Toàn bộ những người sống ở khu vực này đều gầy gò ốm yếu. Có những người do không chịu được cảnh sống phập phồng trong lo sợ những cái chết đến gần với thế hệ sau đã chuyển ra khỏi khu vực đang sinh sống. Cái nghèo khó đã làm nhiều gia đình vẫn phải sống trong cảnh lo âu vì không có điều kiện di chuyển sang nơi ở mới, những ngôi nhà bị bỏ hoang cỏ đã mọc dầy nghiễm nhiên trở thành “chuồng trâu, bò”ngập ngụa phân rác. Trước mắt chúng tôi, những mái nhà tranh tiêu điều là minh chứng cho cái nghèo khó của khu dân cứ gần đường tỉnh lộ. Cuộc sống vốn đã nghèo nàn, giờ lại mắc chứng bệnh nan y khiến người dân hoang mang cực độ, tiền không có để chữa trị, những bệnh nhân đã phải “ra đi” cùng sự túng quẫn của gia đình.
Nỗi đau hai thế kỷ
Bệnh tật, cái chết cứ tiếp tục tiếp diễn ở các xóm nhỏ nghèo ngay bên đường tỉnh lộ. Nạn nhân tập trung chủ yếu vào 9 hộ gia đình ở gần khu trước đây Công ty Vật tư nông nghiệp huyện Cẩm Khê đặt kho thuốc trừ sâu. Cái kho này được đặt ngay trong khu dân cư của bà con nông dân khu 2. Lý do được đưa ra khi đó là để sơ tán vì chiến tranh trong những năm sáu mươi của thế kỉ trước. Sau đó người ta đã dùng một đoàn vận chuyển gồm các xe trâu, xe bò đưa các hoá chất này đi nơi khác. Ông Nguyễn Văn Hồng người tham gia vận chuyển thuốc trừ sâu năm đó kể: “Do vận chuyển bằng phương tiện thô sơ nên thuốc sâu rơi vãi ở các khu vực xung quanh. Chúng tôi đã mất cả tháng trời để di chuyển kho thuốc sâu này đi nơi khác. Nhưng vì lực lượng mỏng nên không thể chuyển hết được”.
Khu vực đặt kho thuốc trừ sâu ngày ấy nằm trên gò Môm Chum gồm 2 khu nhà 7 gian, giờ nằm trọn trong khu nhà ở của anh Đỗ Hữu Tín và một số hộ gia đình khác. “Sau khi đơn vị chủ quản kho thuốc di chuyển đi nơi khác vẫn còn sót lại nhiều thuốc trừ sâu được đựng trong các lọ bằng nhôm, thuỷ tinh, nilon… Dân quê tôi lúc đấy còn nghèo đã thu lượm những bao bì đó để sử dụng phun cho cây trồng” - anh Tín cho biết.
Nhưng càng về sau, khi trong xóm có quá nhiều người bị mắc bệnh, các gia đình trong khu 2 đã tổ chức lấp đất lên những hố thuốc trừ sâu quanh nhà mình. Gần mấy chục năm đã qua, đến bây giờ do mưa gió đã bị lộ thiên. Nhưng túi nilon thuốc trừ sâu phơi bày trên mặt đất ngổn ngang. Thuốc trừ sâu qua năm tháng đã thẩm thấu xuống lòng đất và tiếp tục lan toả làm ô nhiễm môi trường nhất là tình trạng ô nhiễm nguồn nước. Vào những ngày hè nóng nực, bất chợt có trận mưa, mùi thuốc trừ sâu bốc lên nồng nặc. Nhưng giếng nước, ao hồ xuất hiện những váng nước màu vàng. Đã có thời điểm tôm, cá bắt được từ ao đầu to mình bé lại như những sinh vật bị dị tật… những vỏ thuốc trừ sâu đã lộ thiên sau thời gian bị vùi chôn dưới đất, nhưng cũng có những những lọ thuốc trừ sâu có vỏ bị lấp sâu gây ra sự nguy hiểm cho môi trường nơi đây. Nhiều người dân đã phải đào giếng hoặc đi mua nước từ rất xa trở về, nhưng cũng có những gia đình do thiếu nhân lực, tiền của đã phải dùng chính nước được đào xuyên qua “bãi tha ma” của kho thuốc sâu ấy dù biết như vậy là nguy hiểm.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 4, 13/1/2006, tr 3








