Phật giáo thời Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu
Sử cũ kể lại rằng, năm Ất Tỵ (1665), có một vị sư người Trung Quốc là Thọ Tôn Hoà thượng, huý Nguyên Thiều, ban đầu trú ngụ ở Phủ Quy Ninh (Bình Định) lập chùa Thập Tháp Di Đà, sau ra Thuận Hoá lập chùa Quốc Ân để tiếp tục hoằng pháp. Sau ngài theo lời yêu cầu của chúa Nguyễn Phúc Trăn (Nguyễn Phúc Thái) trở về Trung Quốc để mời các danh tăng Trung Quốc sang truyền đạo. Ngài về Quảng Đông mời được Thạch Liêm Hoà thượng (tức Hoà thượng Thích Đại Sán) và rất nhiều danh tăng khác. Khi ngài trở lại cùng phái đoàn đã được đón tiếp vô cùng trọng thị.
Ngài viên tịch dưới thời Bảo Thái nhà Lê và được chúa Nguyễn Phúc Chu ban thuỵ hiệu là Hạnh Đoan Thiền Sư; chúa có làm bài thơ khắc vào bia đá để tán dương công đức của ngài.
Thực ra, mặc dù dưới thời Quốc chúa, Phật giáo có phát triển nhiều, nhưng trước đó, vì không có cương lĩnh và không có nhiều vị sư quảng bác xứng đáng để lãnh đạo. Chính vì thế mà chúa Nguyễn Phúc Trăn đã phải cho người sang Trung Quốc mời cao tăng đến Đàng Trong để chỉnh đốn Đạo pháp, kế tục công việc đó, sau này chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho người dâng thư xin mời Hoà thượng Thạch Liêm đến hai lần. Trong thời gian lưu lại xứ Đàng Trong, ngoài việc cố vấn cho chúa về lĩnh vực trị nước, Hoà thượng đã giúp đỡ nội phủ rất nhiều trong việc trùng hưng lại đạo Phật. Trong cuốn Hải ngoại ký sự.Hoà thượng đã viết:
“Lão tăng từ phương xa đến, được Quốc vương, cung kính, thân như cốt nhục… Vả lại thần dân trong nước thảy đều quy y Tam bảo, thực là một quốc gia ưa muốn làm lành, rất hiếm có ( Hải ngoại ký sự, sđd, tr 50).
Ngày 1 tháng 4, tổ chức lễ truyền Sa di giới, Quốc chúa mở đàn chạy dâng lễ và mời Hoà thượng Đại sán thượng đàn thuyết pháp.
Sang ngày lễ Phật đản (mồng 8 tháng 4), Quốc chúa khai đàn ở Nôi viện, có quốc mẫu, công chúa, hậu cung, quyến thuộc… đồng thọ Bồ tát giới. Tiếp đó, ngày mồng 9 tháng 4, Hoà thượng xuất tăng nhân hai hàng, thi lãnh hơn 1.400 tân giới đệ tử, mặc cà sa, cầm bình bát, cử hành lễ cổ Phật khất thực và tạ ơn Quốc chúa đã thành tựu công đức, kế đó chúa cho mời hai tăng nhân vào cúng chay, dải trà nhóm tân giới đệ tử và ban thêm 300 quan tiền, 100 thạch gạo sai lính gánh đến chùa Thiền Lâm, lại đem tất cả giới điệp có đóng ấn triện của vua ban cấp cho tăng nhân và những người đã tham gia đại lễ trai đàn.
Đến ngày 24 tháng 4, chúa mời 10 đệ tử của Hoà thượng Thích Đại Sán mở một kỳ sám tụng Đại bi đà la ni. Trước đó, chúa có tham vấn ý kiến của Hoà thượng là những việc cần nên làm. Hoà thượng đáp rằng:
“Việc trai giới chẳng phải chỉ để giữ cho sạch miệng, sạch mình, sạch tư tưởng mà thôi. Việc trai giới của nhà vua, cần phải đem việc quốc gia trên dưới thanh lý chỉnh tề, không một người nào chưa được yên sở, không một việc nào chưa được thoả đáng, như thế mới gọi là viên mãn. Nay trước hết, nên thanh lý oan ngục, tha tù bị giam cầm, chẩn cấp kẻ nghèo thiếu, khởi dụng kẻ yêm trệ, bãi bỏ điều cấm nghiêm khắc, thương xót kẻ buôn bán, thi ân cho thợ thầy. Nói tóm lại, nên đem tất cả công việc giúp người lợi vật, châm chước cử hành. Đến như nghi lễ đàn trường, tăng chúng y bát, vật dụng hương hao… sẽ kê đơn chế biến…” ( Hải Ngoại ký sự, tr 97).









