Phản ứng tương tác giữa một số dược thảo với thuốc Tây
Thế nhưng trong cuộc hội thảo lần thứ 30 của Hội Y khoa cấp cứu (Society of Critical Care Medicine) tại Mỹ, các nhà khoa học tuyên bố: “Phải coi chừng một số dược thảo, vì không phải lúc nào dược thảo cũng an toàn”. Nhiều bệnh nhân tự mua dùng, không hiểu hết các phản ứng phụ hoặc tương tác của nhiều dược thảo với thuốc Tây đang dùng nên đã bị phản ứng phải đi cấp cứu như bị rối loạn nhịp tim, co giật và loãng máu… Bác sĩ Olsen, giáo sư tại Đại học Y Dược San Francisco, giám đốc cơ quan Kiểm soát Ngộ độc Mỹ nói: Nhiều sản phẩm thiên nhiên cũng khá hữu hiệu và an toàn, nhưng ở một số nhãn hiệu trên chai, hộp thuốc làm từ dược thảo, không có ghi rõ hàm lượng hoặc hàm lượng thay đổi, do đó liều lượng thuốc cũng có thể bị thay đổi. Ngày càng có thêm nhiều trường hợp nguy hiểm, thí dụ dược liệu Ma hoàng ( Ephedra sinica) bào chế trong thuốc chống béo hay thuôc tăng lực, thường gây phản ứng phụ như tăng huyết áp, rối loạn nhịp tim và đôi khi tử vong. Hai dược thảo khác có tên Colsfoot tức Khoảng đông hoa ( Tussilago farfara) và Comfrey ( Symphytum officinale) chứa chất pyrrolizidin có thể gây nghẹt tĩnh mạch gan. Colsfoot thường được dùng điều trị chứng bệnh đường hô hấp, còn Comfrey dùng làm thuốc kháng viêm. Đôi khi có sự nhầm lẫn Comfrey với Dương địa hoàn ( Digitalis purpurea) rất nguy hiểm cho tính mạng. Ba dược thảo khác như Trúc đào ( Nerium adoratum), Lily-of-the-valley (Ngọc trúc - Convallaria majalis) và Squill ( Drimia maritima) dùng chữa bệnh tim, nhưng cả ba đều làm tim loạn nhịp. Nhiều thuốc Trung Quốc thường chứa Phụ tử ( Aconitum napellus) dùng chữa phong thấp và giảm đau thường gây tụt huyết áp và loạn tâm thất. Dược thảo Water Hemlock ( Circuta maculata) chứa circutoxin gây co giật nguy hiểm. Ngay cả những dược thảo rất thông dụng như Nhân sâm cũng có tác dụng phụ làm cho thuốc chống đông warfarin mất công hiệu. Ngược lại, Bạch quả ( Ginkgo biloba)thì sẽ gây loãng máu, tốt cho người bị bị chứng huyết khối nhưng lại gây chảy máu nghiêm trọng nếu dùng chung với thuốc kháng đông warfarin. Bạch quả cũng có hại cho bệnh nhân bị xuất huyết não.
Dược thảo St.John’s Wort tức cỏ Ban ( Hyperium perforatum) dùng trị bệnh trầm cảm, suy nhược tinh thần cũng có nhiều tương tác với warfarin, indinavir và cyclosporin. Khi uống St. John’s Wort cũng phải tránh không dùng thuốc Tây chống trầm cảm. Uống chung Nhân sâm với thuốc trị bệnh trầm cảm cũng dễ gây rối loạn tâm thần. Sâm Siberi ( Eleutheroccocus senticosus) làm thuốc bổ, chống mệt mỏi và giúp tập trung trí nhớ nhưng có thể phản ứng với digoxin, làm cho digoxin tác dụng mạnh hơn dễ gây nguy hiểm cho tim. Dược thảo Plantain ( Plantago laceolata) dùng trị cảm, chống táo bón cũng có tác dụng nâng cao mức digoxin trong máu nếu dùng chung với nó.
Dược thảo chứa gamahydroxybuterat (GHB) dùng cho cơ bắp to ra và làm tăng khả năng tình dục lại có thể gây nhiều phản ứng phụ nguy hại.
Tóm lại, cần tìm hiểu kỹ các sản phẩm thảo dược trước khi dùng và phải cho bác sĩ biết đang dùng loại dược thảo nào khi đi trị bệnh bằng Tây y để tránh các tương tác thuốc có hại.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 303, 1/3/2006, tr 16








