Những nhà “phát minh” máy trồng đậu tương
Phát minh của kỹ sư nông nghiệp
Có một chiếc máy gieo đậu tương được trình diễn trên cánh đồng hai lúa thực hiện một quy trình từ phay rạ, làm đất đến gieo đậu tương, giúp nông dân bớt vất vả hơn phương pháp cũ. Tác giả của công trình này là kỹ sư Nguyễn Hữu Tuỳ và doanh nghiệp cơ khí nông nghiệp CCB 502 ở thị trấn Vân Đình (Ứng Hoà - Hà Tây).
Tốt nghiệp Khoa Cơ khí - Trường Đại học Nông nghiệp 1, năm 1973 Nguyễn Hữu Tuỳ về công tác tại Công ty Máy kéo và Máy nông nghiệp đóng tại thị xã Hà Đông (Hà Tây). Do sống không nổi với nghề, năm 1991, ông chuyển sang làm kinh doanh vận tải. Nhưng đến năm 2000, ông lại về với nghề cơ khí. Mốc thời gian nảy sinh ý tưởng trong ông là năm 2001, khi mà hàng trăm mẫu đậu tương ở nhiều xã của huyện Ứng Hoà bị mất mùa do mưa to ngập úng. Gia đình ông cũng mất trắng 8 sào. Để gieo được 8 sào đậu này, gia đình ông phải làm cật lực gần 2 tuần mới xong. Tình cảnh ấy khiến ông trăn trở tìm giải pháp giúp bà con đỡ cực nhọc. Từ đó, ông bắt tay vào thiết kế, cải tiến những chiếc máy dùng cho sản xuất nông nghiệp. Bước đầu, ông cải tiến chiếc máy cày, lắp đặt thêm chức năng gặt lúa bằng lồng nhỏ. Chiếc máy đạt kết quả khá tốt. Năm 2002, ông Tuỳ cùng một số cựu chiến binh thành lập doanh nghiệp cơ khí nông nghiệp CCB 502 để có điều kiện thực hiện ý tưởng sáng tạo của mình.
Rồi chiếc máy gieo đậu - sản phẩm kết tinh của trí tuệ, nhiệt huyết của kỹ sư Nguyễn Hữu Tuỳ đã ra đời sau một thời gian mày mỏ cải tiến sáng tạo. Chiếc máy của ông thực hiện cả thao tác phay rạ, làm đất và cuối cùng là đưa đậu vào rãnh, đồng đều, hợp lý. Khó nhất là làm sao để hạt đậu xuống đất không bị vỡ. Chiếc máy được mặc định tiêu chuẩn đặt ra cho phép sơ suất vỡ đậu hạn chế là 2/1.000 hạt. Cuối năm 2004, chiếc máy gieo đậu tương này được thực hiện gieo trên 8 sào ruộng của gia đình và thu được kết quả cao.
Sau hai vụ thử nghiệm thành công, ông tiếp tục hoàn thiện chiếc máy, đồng thời hoàn thành hồ sơ, thủ tục gửi lên Cục Sở hữu trí tuệ xin được cấp bằng sở hữu công nghiệp cho sáng chế khoa học này, để có thể đem ra nhân rộng phục vụ bà con.
... Và cải tiến của anh nông dân
Về Phú Xuyên, nơi có phong trào trồng cây đậu tương vụ đông dẫn đầu tỉnh Hà Tây, đâu đâu người ta cũng ca ngợi anh Nguyễn Sinh Tài như nhà khoa học có nhiều đóng góp cho việc nhân rộng sản xuất cây đậu tương vụ đông. Anh Tài gắn bó với cây đậu tương từ khi nó mới vào đồng trũng. Đến nay, cây đậu đã tràn ngập khắp đồng trên, ruộng dưới. Anh Tài kể về bí quyết trồng cây đậu tương vụ đông mà anh gọi tắt là cây đậu đông. Đây là loại cây phù hợp với nhiều đồng đất nhưng phải chú trọng từ khâu làm đất đến thu hoạch, phải có cơ cấu mùa vụ đúng, phù hợp với điều kiện thời tiết của từng vùng, từng mùa và từng năm, đặc biệt phải có sự hỗ trợ đắc lực của cơ giới thì mới làm tốt trên quy mô lớn, v.v...
Mùa vụ năm 2002-2003, lần đầu tiên đến với cây đậu đông, gia đình anh nhận 5 mẫu ruộng (2,7 mẫu = 1ha) của thị trấn Phú Xuyên. Khi thu hoạch thấy có hiệu quả cao hơn hẳn so với trồng lúa, anh Tài đã nghĩ đến việc mở rộng diện tích trồng, muốn vậy không thể làm theo phương pháp thủ công truyền thống được mà phải cơ giới hoá. Anh tìm hiểu nguyên lý hoạt động của những máy cày, máy bừa để cải tiến ra chiếc máy có thể làm đất và gieo đậu tương sao cho hiệu quả trên cả đồng đất trũng, lầy. Quy nhiều lần vừa lắp ráp vừa đưa vào ruộng theo phương pháp được đến đâu sửa đến đó, cuối cùng anh đã cải tiến được chiếc máy làm đất có thể làm được cả góc vuông của đồng ruộng.
Vụ đông tiếp theo, anh Tài mạnh dạn nhận hơn 80 mẫu ruộng ở xã Phúc Tiến và xã Vân Từ để trồng cây đậu đông. Nhờ có sự thành công của anh mà bà con ở Phú Xuyên không bỏ ruộng nữa. Nhà nào cũng trồng cây đậu đông nhằm tăng thu nhập cho gia đình. Năm 2004-2005, trên toàn bộ đồng ruộng nên anh lại sang tận Dương Cốc (Quốc Oai - Hà Tây) nhận thêm 100 mẫu ruộng để trồng tiếp.
Hiện nay xưởng cơ khí của anh Tài đã có một dàn máy với hai máy chính, ba máy phụ và gần 10 công nhân. Anh chuyên mua máy cũ về sửa chữa rồi cải tiến sao cho phù hợp với điều kiện đồng đất địa phương để cung cấp cho bà con trong vùng.
Trong khi những công trình nghiên cứu cấp quốc gia với những máy móc cồng kềnh và chi phí quá cao còn chưa đến được với người nông dân thì những nhà “phát minh chân đất” như ông Tuỳ, anh Tài đã đáp ứng nhu cầu của người nông dân thực sự giúp bà con bớt vất vả hơn trong công việc đồng áng một nắng hai sương của mình.
Nguồn: Kinh tế nông thôn, số 30 (516), 24/7/2006