Những nhà khoa học nữ bị lãng quên
1. Vera Rubin
Kể từ khi bắt đầu sự nghiệp khoa học, Vera Rubin luôn phải chịu những lời chỉ trích, chống đối và không khuyến khích của các đồng nghiệp nam cũng như nhiều người khác. Sau khi bị từ chối tham gia chương trình thiên văn học tại Đại học Princeton, Mỹ, vì là nữ giới, Vera vẫn tiếp tục nghiên cứu khoa học và nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Georgetown. Vera là người đầu tiên quan sát thấy các ngôi sao ở phần bên ngoài thiên hà có tốc độ quỹ đạo tương ứng với các ngôi sao ở trung tâm. Quan sát của Rubin đã xác nhận lại một học thuyết trước đó bởi nhà khoa học Fritz Zwicky trước đó khiến cô nhận được không ít lời chỉ trích.
2. Cecilia Payne
Cecilia Payne bắt đầu nghiên cứu tại Đại học Cambridge, Anh, năm 1919 sau khi nhận được học bổng về thực vật học, vật lý học và hóa học. Tuy nhiên, chúng đều không có ý nghĩa bởi Cambridge từ chối cấp bằng cho phụ nữ. Trong thời gian ở Cambridge, Payne khám phá ra tình yêu dành của cô cho thiên văn học và trở thành người phụ nữ đầu tiên nhận được tiến sĩ thiên văn học tại Radcliffe. Payne từng đưa ra chứng minh các thành phần cấu tạo Mặt Trời khác biệt với Trái Đất nhưng không được công nhận. Đến năm 1938, Payne mới được công nhận là nhà thiên văn học. Năm 1956, bà được bổ nhiệm và trở thành nữ giáo sư đầu tiên của đại học Harvard.
3. Chien Shiung Wu
Chien Shiung Wu là một người Trung Quốc nhập cư sang Mỹ. Tại đây Wu bắt đầu tham gia dự án Manhattan và phát triển bom nguyên tử. Đóng góp lớn nhất của cô cho giới khoa học là khám phá ra sự vi phạm của Luật Bảo tồn Tính chẵn lẽ trong khi đây là định luật phổ biến rộng rãi. Phát hiện của Wu đã đảo ngược quan điểm khoa học tồn tại suốt 30 năm. Tuy nhiên, hai đồng nghiệp của Wu là Chen Ning Yang và Tsung Dao Lee, những người nhờ đến phát hiện và sự giúp đỡ của Wu để chứng minh cho lý thuyết này phát hiện đã giải thưởng Nobel mà không đề cập đến Wu.
4. Nettie Stevens
Nghiên cứu giới tính được xác định bởi 23 cặp nhiễm sắc thể được ghi nhận là phát hiện của Thomas Morgan. Tuy nhiên trước đó, Nettie Stevens là người nghiên cứu xác định giới tính của sâu mealworm và nhận ra rằng nó phụ thuộc vào nhiễm sắc thể X và Y. Trong mắt mọi người, Stevens chỉ là người làm việc cho Thomas Morgan, trong khi hầu hết các phát hiện của cô đều được thực hiện độc lập. Morgan cũng chỉ coi Stevens là một kỹ thuật viên hơn chứ không phải là một nhà khoa học thực thụ.
5. Ida Tacke
Năm 1925, nhà hóa học trẻ Ida Tacke tuyên bố khám phá ra 2 nguyên tố còn thiếu trong bảng tuần hoàn của Mendeleev. Khám phá của Ida về Rhenium 75 chưa bao giờ gặp phải tranh luận, nhưng nguyên tố 43 mà Ida gọi là Masurium bị các nhà khoa học khác hoài nghi và từ chối. Ngày này, nguyên tố đó gọi là Technetium, được khám phá bởi Carlo Perrier và Emilio Segre. Nghiên cứu mô tả tiến trình cơ bản của phản ứng phân hạch hạt nhân của Ida cũng hoàn toàn bị bác bỏ và chỉ được công nhận 5 năm sau đó.
6. Esther Lederberg
Các khám phá của Esther được thực hiện cùng với chồng Joshua Lederberg, tuy nhiên những đóng góp của Esthe hầu như không được biết đến trong khi Joshua là người nhận được giải Nobel dành cho những phát minh của họ. Esther là người đầu tiên giải quyết vấn đề tái tạo thuộc địa của vi khuẩn. Mặc dù có rất nhiều những khám phá quan trọng trong lĩnh vực sinh học và di truyền học, sự nghiệp khoa học của Esther hầu như không nhận được sự công nhận từ các đồng nghiệp mà đều vinh danh cho người chồng Joshua. Thậm chí Esther còn bị giáng chức thành giáo sư phụ tá trong khi Joshua được bổ nhiệm là người sáng lập và Chủ tịch của Sở di truyền học.
7. Lise Meitner
Tiến trình phân rã hạt nhân là một khám phá lớn đối với giới khoa học, nhưng ít người biết rằng một người phụ nữ có tên là Lise Meitner chính là người đầu tiên đưa ra giả thuyết này. Năm 1944, Otto Hahn, người từng gặp gỡ và trao đổi với Meitner về giả thuyết này được trao giải Nobel hoá học cho phát hiện sự phân rã hạt nhân nhưng không hề nhắc đến Meitner. Mặc dù không nhận được giải Nobel, tên của Meitner đã được đặt cho nguyên tố hoá học thứ 109, như một sự đền đáp cho một nữ khoa học gia chân chính.
8. Henrietta Leavitt
Leavitt bắt đầu làm công việc đo lường và biên mục các ngôi sao tại Đài quan sát Harvard, một công việc hiếm hoi đối với phụ nữ và chỉ được trả 30 cent mỗi giờ làm việc. Trong quá trình làm việc, Leavitt chú ý đến mô hình giữa độ sáng của ngôi sao và khoảng cách từ Trái Đất và phát triển ý tưởng về mối quan hệ thời gian – độ sáng, cho phép các nhà khoa học tìm ra khoảng cách của một ngôi sao đến Trái Đất dựa trên độ sáng của nó. Các nhà thiên văn học nổi tiếng như Harlow Shapley và Edward Hubble sử dụng phát hiện của Leavitt làm nền tảng cho nghiên cứu của họ trong khi Leavitt bị hiệu trưởng Đại học Harvard từ chối công nhận khám phá cá nhân. Năm 1926, Mittas Leffler cuối cùng cũng đã chú ý đến Leavitt và đề cử nhà khoa học cho giải Nobel, tuy nhiênLeavitt đã qua đời trước khi có thể nhận được danh hiệu cao quý này.
9. Jocelyn Bell Burnell
Burnell từng tốt nghiệp cử nhân vật lý tại Đại học Glasgow. Trong khi độc lập nghiên cứu với kính thiên văn, Burnell chú ý thấy những tín hiệu cụ thể và liên tục phát ra từ thứ gì đó trong không gian mà sau này được gọi tên là pulser phát ra từ các ngôi sao neutron. Khám phá này nhanh chóng được thừa nhận cùng với tên của Antony Hewish. Trong khi Burnell mới là người độc lập nghiên cứu, Hewish vẫn được trao giải Nobel năm 1974 dành cho khám phá này.
10. Rosalind Franklin
Ở tuổi 33, Rosalind là người đã tìm ra hình dạng của ADN bao gồm 2 chuỗi. Sau khi sử dụng máy tia X tân tiến, Rosalind có được những phim ảnh của ADN dưới dạng B. Đồng nghiệp của Rosalind là Maurice Wilkins đã cung cấp công trình nghiên cứu và những bức ảnh chụp được đưa cho Watson và Crick, nhờ đó hai nhà khoa học này có thể xây dựng cấu trúc AND vào năm 1953 và nhận được giải Nobel. Cái tên Rosalind Franklin thậm chí không được nhắc đến một lần trong bài diễn văn khi nhận giải thưởng.