Những nguyên nhân gây lũ lụt ở miền Trung
Ông Đoàn Diễm – Phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam cho biết, có rất nhiều nguyên nhân gây ra lũ lụt ở miền Trung. Trước tiên đó là thiếu một quy hoạt tổng thể phát triển kinh tế xã hội cho các vùng đầu nguồn, hiện nay đã có văn bản pháp luật về quy hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên quy hoạch này cũng như quy hoạch bảo vệ phát triển rừng hiện chưa phải là văn bản pháp luật đủ mạnh buộc mọi ngành, mọi địa phương phải tuân thủ, nên vì thế mà những quy hoạch này thường bị phá vỡ. Ví dụ, quy hoạc phát triển cây cao su được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là tạo được 800.000 ha cây cao su đến năm 2020, nhưng đến cuối năm 2012 toàn quốc đã có 915.000 ha cây cao su và còn đang tiếp tục phát triển, kể cả ở các vùng không thích hợp cho trồng cây cao su như Bắc trung bộ, Tây bắc, nhiều diện tích rừng Khộp Tây Nguyên.
Chuyển đổi rừng để trồng cao su, cà phê, tiêu, sắn… có lợi ích là tạo ra việc làm và thu nhập cho người dân, doanh nghiệp. Nhưng hiệu quả kinh tế đó có so sánh được với môi trường bị hủy hoại không và có giải pháp nào khác phù hợp hơn là chuyển đổi rừng tự nhiên không?
Hiện nay Việt Nam chưa có quy hoạch sử dụng tổng hợp tài nguyên nước trên các lưu vực sông, nên việc quản lý tài nguyên nước, trong đó có tài nguyên nước ở các hồ chứa thủy điện và việc sử dụng nước để phát điện, chưa phát huy được mục tiêu sử dụng tổng hợp – đa mục tiêu.
Quy hoạch và thiết kế các công trình thủy điện thường chú trọng đến hiệu quả kinh tế phát điện, chưa đưa yêu cầu phòng lũ cho hạ du như là một trong những nhiệm vụ chính của công trình. Đối với nhiều công trình thủy điện, nhiệm vụ chống lũ cho hạ du chỉ được xem là nhiệm vụ kết hợp, vì thế các công trình này không có dung tích dành riêng cho cắt lũ và việc phòng lũ cho hạ du thường được thực hiện bằng cách hạ thấp mực nước trước lũ xuống thấp hơn mực nước dâng bình thường, không đáp ứng được yêu cầu phòng chống lũ, đặc biệt đối với nhiều tỉnh miền Trung.
Hiện nay cả nước đã có gần 7000 hồ chứa thủy lợi với tổng dung tích trên 11 tỷ m3 nước, trong đó có nhiều đập đang xuống cấp hoặc bị hư hỏng. Hơn 90% số đập tạo hồ ở nước ta hiện nay là đập đất, trong đó chủ yế là đập cấp IV và cấp V với khả năng chống lũ thấp. Loại đập này có điểm yếu là khi nước trang qua thì dễ gây xói, moi sâu vào thân dẫn đến bị vỡ. Ngoài ra, khi cường suất mưa lớn và kéo dài, đất thân đập bị bão hòa nước làm giảm khả năng chống đỡ, dẫn đến trượt mái và hư hỏng đập.
Một nguyên nhân rất quan trọng là do mất rừng đầu nguồn. Theo quy hoạch phát triển thủy điện cả nước đến năm 2015 có xét đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, công suất lắp đặt các nhà máy thủy điện đến năm 2015 vào khoảng hơn 18.000 MW với sản lượng điện trung bình hàng năm trên 80 tỷ Kwh. Với khoảng 260 công trình đang vận hành có tổng công suất gần 11.000 MW, thủy điện Việt Nam đang cung cấp khoảng 36% nhu cầu điện của cả nước. Đến thời điểm hiện nay, số dự án đăng ký ồ ạt đã lên tới con số 1.097, với tổng công suất dự kiến là 24.246 MW. Trong đó, chỉ mới 195 dự án đã phát điện, 245 dự án đang xây dựng. Còn tới 657 dự án chưa đầu tư.
Tuy nhiên, các công trình hỗ trợ cho công trình thủy điện cũng đòi hỏi xây dựng nhiều khu tái định cư, đường giao thông và các công trình phù hợp khác với diện tích đất ở, đất canh tác nông nghiệp… cho người dân các vùng đã bị ngập dưới lòng hồ. Theo thống kê chưa đầy đủ, riêng các công trình thủy điện trong nước, việc di dời và tái định cư đã ảnh hưởng trực tiếp tới hơn 150 ngàn người dân trước đây và 400 ngàn người dân hiện nay. Để đáp ứng nhu cầu lương thực, mỗi hộ ít nhất phải có 1 ha đất để trồng cây lương thực, như vậy chỉ riêng đất canh tác nông nghiệp sẽ phải phá đi ít nhất 80.000 ha rừng tự nhiên để đảm bảo an ninh lương thực cho họ, vì khả năng mở rộng diện tích lúa nước là rất hạn chế ở các vùng núi. Hơn nữa, phần lớn người dân phải di dời là đồng bào các dân tộc ít người, nên nếu Nhà nước bố trí nơi định cư không đảm bảo điều kiện sống của họ, thì họ lại sẽ di cư tự do đến những nơi có nhiều rừng tự nhiên còn tốt và tiếp tục phá rừng để canh tác, làm tăng thêm nguy cơ mất rừng và giảm tác dụng phòng hộ đầu nguồn của rừng.
Ông Diễm cũng cho biết thêm, hiện diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam đã giảm mạnh trong những năm qua. Các nguyên nhân mất rừng ngập mặn là do chiến tranh; do “khai hoang” rừng ngập mặn để lấy đất sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn 1980-1985 với riêng tỉnh Minh Hải (cũ) đã “khai hoang” 20.000 ha; do chặt phá rừng để nuôi tôm trong 20 năm qua là 200.000 ha.
Các dải rừng phòng hộ ven biển chủ yếu là rừng phi lao cũng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với môi trường sinh thái của các tỉnh miền Trung. Tuy nhiên, rừng phòng hộ ven biển đang đứng trước nguy cơ bị thu hẹp vì nhiều nguyên nhân như phá rừng phi lao để xây dựng khu nghỉ mát, khách sạn, làm hồ nuôi tôm, khai thác khoáng sản… mà theo họ “có hiệu quả kinh tế cao hơn”. Thực tế này đòi hỏi phải có sự dung hòa giữa yêu cầu phát triển kinh tế với việc giữ lại những cánh rừng phòng hộ ven biển và rừng ngập mặn.
Chính vì những nguyên nhân này, cần khôi phục rừng ngập mặn và rừng phòng hộ ven biển phải là ưu tiên cao trong chương trình giảm thiểu biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Ngoài ra, cần có sự hỗ trợ nhiều hơn của Chính phủ và cộng đồng quốc tế đặc biệt cho các cộng đồng dân cư bị tổn thương, trên cơ sở gắn kết giữa hệ sinh thái rừng ngập mặn với việc phát triển bền vững, để có thể tiếp tục gìn giữ và phát triển những diện tích rừng hiện có.
Cần xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế cho các vùng đầu nguồn quan trọng ở miền Trung để xác định hiệu quả phòng hộ đầu nguồn của các diện tích rừng hiện có và ảnh hưởng của những quy hoạch thủy điện, thủy lợi, giao thông, du lịch và phát triển nông nghiệp đối với tác dụng phòng hộ của rừng đầu nguồn và phòng hộ ven biển, hồ đập và đề xuất các giải pháp khắc phục.








