Những điều cần biết về tiêm khớp
Do tính ưu việt của phương pháp điều trị này, nên hiện nay có một số cơ sở y tế và cán bộ y tế đã lạm dụng tiêm khớp trong khi không nắm vững được chỉ định, chống chỉ định cũng như kỹ thuật tiêm khớp và đã gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc cho người bệnh như nhiễm khuẩn vị trí tiêm, viêm khớp mủ, đứt gân, teo cơ, huỷ xương… Đây là một thực trạng đáng buồn cần phải khuyến cáo để cả cán bộ y tế và người bệnh phải cẩn trọng khi áp dụng liệu pháp điều trị này.
Không phải bệnh khớp nào cũng áp dụng liệu pháp điều trị tiêm khớp
1. Tiêm khớp chỉ được chỉ định điều trị tại chỗ cho các bệnh lý phần mềm cạnh khớp (gân, dây chằng, bao khớp…):
- Viêm gân và các điểm bám gân: hội chứng Dequervain, (viêm mỏm châm quay), viêm mỏm châm trụ, viêm lồi cầu cánh tay, viêm mào chậu, viêm gân achilles…
- Viêm bao gân: ngón tay lò xo (viêm bao gân gấp ngón tay), đau quanh khớp vai, hội chứng đường hầm cổ tay…
- Viêm sụn sườn (hội chứng Trietze), viêm sụn xườn…
2. Một số bệnh viêm màng hoạt dịch khớp không đặc hiệu như:
- Thoái hoá ở khớp giai đoạn nhẹ: khớp gối, khớp thái dương hàm, khớp bàn cổ chân, khớp vai…
- Viêm khớp dạng thấp: khớp gối, khớp bàn cổ tay, khớp khuỷu tay, khớp vai, khớp bàn ngón tay, khớp bàn cổ chân…
- Bệnh lý cột sống thể huyết thanh âm tính: viêm cột sống dính khớp, viêm khớp phản ứng, viêm khớp vẩy nến, viêm khớp mạn tính thiếu niên…
- Viêm khớp sau chấn thương (không có tràn máu khớp do chấn thương)
Cần lưu ý rằng chỉ nên áp dụng tiêm khớp sau khi các biện pháp điều trị nội khoa các trường hợp này không có kết quả (vật lý trị liệu, thuốc giảm đau, thuốc chống viêm không steroid) nhằm tránh việc lạm dụng tiêm khớp và tiêm phần mềm quanh khớp
Không được áp dụng tiêm khớp cho các trường hợp
1. Viêm khớp nhiễm khuẩn: viêm khớp mủ, lao khớp
2. U xương khớp (lành tính và ác tính)
3. Tổn thương khớp do bệnh lý thần kinh, bệnh máu
4. Nhiễm khuẩn ngoài da vùng tiêm khớp
Thận trọng chỉ định tiêm khớp đối với bệnh nhân có tiền sử đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh máu, nhiễm nấm, suy giảm miễm dịch (HIV). Thực tế cho thấy nếu quá lạm dụng tiêm khớp trong các trường hợp này có thể làm cho bệnh tiến triển nhanh và trầm trọng hơn, nhiều khi nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.
Không phải loại thuốc nào cũng sử dụng để tiêm khớp
Do thiếu hiểu biết nên một số người đã sử dụng cả thuốc kháng sinh, vitamin B12, thậm chí cả các thuốc chống viêm không steroid (voltaren, diclofenac…) để tiêm vào ổ khớp. Điều này rất nguy hiểm vì các thuốc này sẽ gây phản ứng viêm mạnh ở màng hoạt dịch, sụn khớp… làm khớp sưng to, rất đau và có thể dẫn đến hậu quả viêm dính khớp, làm mất khả năng vận động của khớp. Vì vậy cần phải nhấn mạnh rằng, hiện nay chỉ nên sử dụng các thuốc sau đây để tiêm khớp như: các chế phẩm steroid ở dạng dịch treo, chậm tan (Hydrocortison acetate, Diprospan, Depo-Medrol); một số thuốc tiêm khớp đặc biệt khác (Axit osmic 1%, Hyaluronate sodium…)
Tai biến thường gặp
Tuy là một trong các thủ thuật điều trị đơn giản, ít tốn kém, an toàn và có hiệu quả điều trị cao, nhưng nếu lạm dụng liệu pháp điều trị này trong khi không đảm bảo các nguyên tắc vô trùng, không nắm vững chỉ định, chống chỉ định, vị trí giải phẫu, kỹ thuật tiêm và liệu trình điều trị thì sẽ gây rất nhiều tai biến và biến chứng cho người bệnh. Các tai biến hay gặp nhất là:
- Nhiễm khuẩn khớp tiêm dẫn đến viêm mủ: do không thực hiện tốt quy tắc vô khuẩn khi tiêm, tiêm thuốc quá liều lượng, thuốc tiêm không đảm bảo chất lượng… Đây là một tai biến nặng cần phải xử lý kịp thời và điều trị kháng sinh liều cao càng sớm càng tốt để tránh nguy cơ huỷ hoại xương khớp, dính khớp, nhiễm khuẩn huyết cho người bệnh.
- Đau tăng sau khi tiêm 12 – 24 giờ: do phản ứng viêm màng hoạt dịch với tinh thể thuốc (viêm khớp vi tinh thể), thường khỏi sau một ngày, không phải can thiệp
- Teo da, mất sắc tố da tại chỗ tiêm do tiêm nhiều lần vào một vị trí, hoặc tiêm quá nông
- Rất hiếm gặp tai biến do biểu hiện kích thích hệ phó giao cảm do bệnh nhân quá sợ hãi, tiêm thuốc vào mạch máu hoặc tiêm quá nhanh: bệnh nhân thấy choáng váng, vã mồ hôi, ho khan, có cảm giác tức ngực khó thở, rối loạn cơ tròn… xử lý: đặt bệnh nhân nằm đầu thấp, giơ cao chân, theo dõi mạch, huyết áp để có các biện pháp xử lý cấp cứu khi cần thiết.
Để đạt được hiệu quả tốt của phương pháp điều trị tại chỗ, bệnh nhân nên đến tư vấn tại các cơ sở chuyên khoa khớp để được các bác sĩ khám, chẩn đoán xác định bệnh để có chỉ định và tiến hành tiêm khớp nhằm tránh các hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra cho người bệnh.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 4 (1826), 13 – 1 – 2006, tr 10








