Nhân ngày môi trường thế giới 5/6: Vấn đề môi trường đối với sức cạnh tranh của doanh nghiệp và việc khuyến khích doanh nghiệp tham gia quản lý môi trường
Trong những năm vừa qua, sau khi có chính sách mở cửa, Việt Nam đã đạt được tiến bộ về các mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Chính sách đổi mới đã ảnh hưởng tới lĩnh vực môi trường vì nó khuyến khích sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiện, thực hiện sự chuyển đổi công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường.
Tuy nhiên, cũng như nhiều nước trên thế giới, tăng trưởng kinh tế nhanh thường đi kèm với các vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nếu không có các biện pháp hữu hiệu ngăn chặn. Việt Nam cũng ở trong tình trạng các thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra ở mức cao (khoảng 10% GDP) và đang có xu hướng gia tăng.
Để giải quyết mối quan hệ tương tác giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế, điều tiên quyết là phải có các chính sách kinh tế - xã hội - môi trường phù hợp, lấy phòng ngừa làm nguyên tắc cơ bản và mục tiêu bao trùm là phát triển bền vững.
Vấn đề môi trường đối với các cạnh tranh của doanh nghiệp
1. Bối cảnh chung
Trong xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại liên quan tới môi trường không nhũng ở cấp quốc tế, quốc gia mà còn ở chính mỗi doanh nghiệp.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và vấn đề môi trường cũng rất nổi cộm, cần xem xét giải quyết.
Ngày 1-1-1995, Việt Nam đã làm thủ tục để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sau 11 năm đàm phán cam go, từ ngày 11-1-2007 Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức này, được hưởng những lợi ích nhất định, đồng thời cũng phải đáp ứng những nghĩa vụ, theo các quy định hiện hành của WTO.
Tháng 12-1996, Hội nghị cấp Bộ trưởng tại Xin-ga-po đã thông qua 10 điều khoản cho Uỷ ban Thương mại và Môi trường thuộc WTO, bao gồm:
Điều 1. Mối quan hệ giữa các điều khoản của hệ thống thương mại đa phương về những giải pháp thương mại vì mục đích bảo vệ môi trường, bao gồm các biện pháp phù hợp với những điều khoản của Hiệp định môi trường đa biên (MEAs).
Điều 2. Mối quan hệ giữa các chính sách bảo vệ môi trường gắn liền với thương mại, các biện pháp bảo vệ môi trường có tác động lớn đến thương mại và các điều khoản của hệ thống thương mại đa phương.
Điều 3. Mối quan hệ giữa các điều khoản của hệ thống thương mại đa phương và những yêu cầu đối với tiêu chuẩn sản phẩm, quy định kỹ thuật, bao bì, nhãn mác và tái chế vì mục tiêu bảo vệ môi trường.
Điều 4. Những điều khoản của hệ thống thương mại đa phương về tính minh bạch của các biện pháp thương mại dịch vụ với mục tiêu bảo vệ môi trường và các biện pháp đáp ứng yêu cầu về mặt môi trường có ảnh hưởng lớn đến thương mại.
Điều 5. Mối quan hệ giữa cơ chế giải quyết tranh chấp trong hệ thống thương mại đa phương và trong các hiệp định môi trường đa phương.
Điều 6. Ảnh hưởng của các biện pháp bảo vệ môi trường đối với sự thâm nhập thị trường, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, các nước kém phát triển nhất trong nhóm nước đang phát triển, những lợi ích về mặt môi trường của việc xoá bỏ những hạn chế và sự luận điệu gây hiểu lầm về thương mại.
Điều 7. Vấn đề xuất khẩu những mặt hàng cấm tiêu thụ trong nước (DGPs).
Điều 8. Những điều khoản liên quan đến hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại quốc tế (TRIPs).
Điều 9. Chương trình làm việc dự kiến trong quyết định thuộc về lĩnh vực dịch vụ và môi trường.
Điều 10. Việc tham gia của các cơ quan hữu quan và sự sắp xếp thích hợp mối quan hệ với các tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ được đề cập trong điều 5 của WTO.
Một số vấn đề thực hiện các thoả thuận môi trường đa phương ở Việt Nam trong mối quan hệ với tự do hoá thương mại quốc tế.
Cũng như việc hội nhập vào WTO, việc tham gia ký kết các Hiệp định môi trường đa biên có những lợi ích và nghĩa vụ nhất định với Việt Nam đồng thời có những thách thức và khó khăn về vấn đề bảo hộ sản xuất trong nước, cân bằng nguồn thu ngân sách, bảo vệ môi trường…
Đối với nước ta, việc thực hiện các thoả thuận môi trường đa phương trong mối quan hệ với tự do hoá thương mại quốc tế vẫn còn nhiều vướng mắc.
Xin lấy ví dụ về việc thực hiện công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, chẳng hạn như Công ước CITES về bảo vệ các giống loài có nguy cơ bị tuyệt chủng do bị khai thác quá mức vì mục đích thương mại. Thông qua việc hạn chế buôn bán quốc tế, Công ước CITES cưỡng chế việc thực hiện các thoả thuận môi trường. Ngoài ra, vẫn còn những bất cập trong thực hiện Công ước Đa dạng sinh học và việc thực thi thoả thuận về quyền sở hữu trí tuệ.
Một điểm cần chú ý khác để chuẩn bị cho việc tham gia WTO là tất cả các nước khi tham gia WTO phải thực hiện một số quy định và một trong số đó là thoả thuận về quyền sở hữu trí tuệ (TRIP). TRIP nhằm bảo vệ quyện sở hữu phát minh sáng chế (bao gồm cả sản phẩm, công nghệ và các giống loài động thực vật và vi sinh vật mới được phát hiện), bảo vệ bản quyền và nhãn mác thương mại. Tuy nhiên cần chú trọng thực hiện Công ước đa dạng sinh học trong mối quan hệ với TRIP và thực tế ở Việt Nam .
Điều khoản số 27.3 (b) của TRIP cho phép một số ngoại lệ trong thực hiện quyền sở hữu trí tuệ đối với động thực vật. Có ý kiến cho rằng việc thực hiện thoả thuận về sở hữu trí tuệ sẽ tạo ra rào cản cho các sản phẩm và công nghệ có nguồn gốc gen trong khi việc thực hiện Công ước quốc tế về Đa dạng sinh học chú trọng khai thác nguồn gen một cách hợp lý để đảm bảo cùng chia sẻ lợi nhuận.
Bên cạnh đó, khi tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, chúng ta buộc phải tuân thủ các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, do đó có điều kiện hợp tác và nâng cao khả năng bảo vệ môi trường quốc gia cũng như khu vực toàn cầu. Tham gia vào các tổ chức và hiệp định trên là điều kiện và môi trường thuận lợi để các tổ chức hữu trách của Việt Nam tự hoàn thiện mình nhằm hội nhập các vấn đề thương mại và môi trường với khu vực và thế giới.
Các doanh nghiệp ngày nay đang phải đương đầu đồng thời với 2 thử thách cạnh tranh ngày càng khốc liệt bởi sự gia tăng thương mại hoá quốc tế và thực hiện các nỗ lực bảo vệ mô trường. Có những doanh nghiệp xem các luật lệ về môi trường như là những hạn chế đối với việc tăng khả năng cạnh tranh của họ. Nhưng đồng thời có những điển hình về quy trình sản xuất sử dụng hiệu quả nguyên vật liệu và năng lượng đã mang lại lợi ích cho cả hai mặt: Tài chính và góp phần cho môi trường sạch hơn.
Ở Việt Nam , có ba thành phần chính của khối doanh nghiệp gồm: các công ty lớn đa quốc gia, xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ, các xí nghiệp sở hữu Nhà nước với các quy mô khác nhau. Mỗi loại hình trên lại có từng loại vấn đề và có sự tiềm ẩn khác nhau. Hiện nay phổ biến nhất là nhiều tài nguyên thiên nhiên được các công ty đa quốc gia sử dụng quá mức gây xâm hại, phá huỷ môi trường. Và kết quả là các công ty đa quốc gia ngày nay đang chịu nhiều áp lực của cả thế giới nên càng chú ý hơn đến việc tạo dựng “hình ảnh xanh” của mình. Điều này cũng có nghĩa về tiềm năng chuyển giao công nghệ sạch và giải pháp phòng chống ô nhiễm. Điểm nổi bật ở Việt Nam là số các xí nghiệp vừa và nhỏ rất nhiều. Trên quan điểm môi trường, rất khó quản lý các công ty vừa và nhỏ vì số lượng nhiều cũng như sự đa dạng của quy trình công nghệ. Chúng tạo nên một thách thức rất lớn cho công tác quản lý về môi trường ở tất cả các cấp. Vấn đề ở đây là Chính phủ, bằng công cụ pháp lý tạo áp lực lên các doanh nghiệp, đồng thời đưa được những phương cách và biện pháp để trợ giúp các xí nghiệp vừa và nhỏ vừa làm tăng tài chính, vừa tăng cường các phương pháp sản xuất có lợi cho môi trường.
Trong bối cảnh hiện nay, các xí nghiệp nhà nước phải phấn đấu tăng sức cạnh tranh trên trường quốc tế, do đó cần phải giảm giá thành và cải tiến quản lý. Đầu tư cho sản xuất sạch và công nghệ giảm thiểu ô nhiễm môi trường mới chỉ nhận được ưu tiên thấp. Thách thức ở đây là sớm đưa ra những biện pháp bổ sung và thay thế để đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về bảo vệ môi trường thông qua các chiến dịch nâng cao nhận thức về phương pháp quản lý sản xuất sạch, huy động các nguồn lực của khối doanh nghiệp liên doanh có khả năng tạo hình mẫu về công nghệ sản xuất có hiệu quả kinh tế và thân thiện với môi trường.
2. Các vấn đề liên quan về môi trường của doanh nghiệp Việt Nam
- Áp lực khai thác tài nguyên thiên nhiên
Hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển mạnh kéo theo việc tăng nhu cầu khai thác thiên nhiên. Để phát triển nhanh sản xuất, kinh doanh, thu nhiều lợi nhuận, các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác một cách ồ ạt, khai thác quá mức các nguồn tài nguyên không tái tạo. Hậu quả là môit trường bị suy thoái, tài nguyên bị cạn kiệt, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Các thành phần môi trường như đất, nước, không khí bị ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường sảy ra thường xuyên, chất lượng môi trường bị suy giảm.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh thải ra môi trường các nguồn chất thải rắn, khí, lỏng chưa được xử lý đã làm ô nhiễm đất, các nguồn nước và không khí, gây ra các hiện tượng mưa axít, chua phèn đất canh tác, giảm chất lượng các nguồn nước dùng cho các mục đích khác nhau. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp còn gây ô nhiễm tiếng ồn, phát tán các chất phóng xạ, các chất gây bệnh nghệ nghiệp, trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động và nhân dân quanh vùng.
- Các doanh nghiệp được thành lập trên một cơ sở hạ tầng kém.
- Trình độ công nghệ, máy móc thiệt bị, trình độ chuyên môn của lực lượng lao động nói chung còn rất thấp.
- Các nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ, lắp đặt các thiết bị giảm thiểu, xử lý ô nhiễm, xử lý chất thải rất thiếu.
- Luật bản vệ môi trường và hệ thống các văn bản Luật đang được hoàn thiện, các quy định về phòng ngừa ô nhiễm, ngăn ngừa và khắc phục ô nhiễm được tuân thủ đầy đủ và nghiêm minh đối với các doanh nghiệp.
- Ngành công nghiệp môi trường chưa phát triển.
- Hệ thống cơ quan quản lý môi trường từ Trung ương đến địa phương còn rất mỏng và phần nào chưa đáp ứng được nhiệm vụ giám sát kiểm tra, dẫn đến ý thức chấp hành luật pháp của cộng đồng doanh nghiệp chưa nghiêm minh.
- Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững của doanh nghiệp còn chưa đầy đủ.
3. Doanh nghiệp cần quan tâm về bảo vệ môi trường trong một nên kinh tế mở cửa để Việt Nam hội nhập thương mại quốc tế.
Môi trường liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu:
- Hiện nay nguyên liệu thô, hàng sơ chế chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số hàng xuất khẩu nước ta. Nếu chỉ đẩy mạnh chung mà không có chuyển hướng sang xuất khẩu loại hàng có hàm lượng chế biến cao thì trong tương lai nguồn tài nguyên sẽ bị cạn kiệt.
- Chúng ta cũng nhập khẩu chủ yếu các nguyên liệu và công nghệ trong nước không sản xuất được.Tuy nhiên công nghệ nhập khẩu đôi khi không những kém hiện đại mà còn lạc hậu do không xem xét và kiểm soát chặt chẽ đã gây tác động xấu đên môi trường trong qúa trình vận hành.
Môi trường liên quan đến công nghệ:
- Khi các công ty tiến hành đổi mới công nghệ và sử dụng công nghệ sạch hơn thì sản phẩm của họ khác biệt với những sản phẩm khác trên chỉ tiêu mức độ thân thiện của sản phẩm và môi trường. Trên cơ sở sự khác biệt này, công ty có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm của mình.
- Các quy định về quy trình công nghệ sản xuất liên quan đến việc chứng nhận một sản phẩm có thân thiện với môi trường hay không đã trở thành một điều kiện tham gia vào thị trường. Nếu doanh nghiệp chúng ta không cải tiến được công nghệ mà vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm thì sẽ gặp những rào cản khi gia nhập vào thị trường quốc tế.
Môi trường và thương mại liên quan đến chất lượng sản phẩm.
- Chiến lược sản phẩm không chỉ giới hạn ở quản lý chất lượng thông thường (chất lượng và quy trình sản phẩm) mà còn bao hàm cả chất lượng môi trường trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của sản phẩm.
- Các sản phẩm thân thiện với môi trường không chỉ tạo ra các lợi thế cạnh tranh từ các đặc tính này mà còn có thể tạo cơ hội cho công ty hạ giá thành sản phẩm thông qua việc giảm thiểu chất thải và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên.
Môi trường và thương mại có liên quan đến thị trường:
- Việc quan tâm đến môi trường và sự phát triển bền vững cũng là một chiến lược quan trọng hỗ trợ cho sự thành công trong kinh doanh của các công ty.
- Tiến trình hội nhập đã loại bỏ hàng rào thuế quan đối với thị trường tại các nước trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, các thị trường EU, Nhật, Mỹ... lại càng ngày chọn lọc, khó tính hơn và các quốc gia thường tạo ra những hàng rào phi thuế quan mới thông qua những quy định về môi trường đối với hàng hoá nhằm hạn chế xuất nhập khẩu.
Hệ thống quản lý môi trường doanh nghiệp theo tiêu chuẩn ISO 14001:
- Chứng chỉ ISO 14001 có nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế. Nhiều hợp đồng thương mại, quan hệ đối tác, giao dịch thương mại đã đưa vấn đề Chứng nhận ISO 14001 thành điều kiện ràng buộc hai bên. Việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá vào một số thị trường trên thế giới cũng đã đưa vấn đề Chứng chỉ ISO 14001 thành điều kiện tiên quyết. Đặc biệt, trong quá trình hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ thì “hàng rào môi trường - ISO 14001” hình thành và cản bước những ai chưa có chứng chỉ trên. Chính vì thế ngày càng có nhiều doanh nghiệp, tổ chức xây dựng hệ thống quản lý môi trường ( EMS) theo ISO 14001 và có nhu cầu nhận được giấy chứng nhận hợp chuẩn.
4. Một số việc doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia để nâng cao sức cạnh tranh của mình thông qua các hoạt động bảo vệ môi trường.
Thay đổi, cải tiến công nghệ:
- Như đã trình bày ở trên, doanh nghiệp Việt Nam phần lớn còn sử dụng công nghệ cũ, hiệu quả thấp và khả năng gây ô nhiễm môi trường lớn. Điều này dẫn tới sản phẩm có giá thành cao (do sử dụng kém hiệu quả đối với tài nguyên, nhiên liệu). Hơn nữa, sản phẩm sẽ ít đáp ứng được các yêu cầu của thị trường, đặc biệt thị trường quốc tế. Việc đổi mới, cải tiến công nghệ và lắp đặt các thiết bị xử lý chất thải sẽ giúp doanh nghiệp: 1) Tiết kiệm được nguyên liệu và nhiên liêu (giảm giá thành sản xuất); 2) Nâng cao vị trí của sản phẩm; 3) Đáp ứng được yêu cầu về môi trường của thị trường quốc tế (vì thân thiện với môi trường); 4) Tuân thủ được các quy định về môi trường của Nhà nước.
Sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên:
- Bên cạnh việc cải tiến và đổi mới công nghệ, vấn đề sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên ở đây đề cập tới việc thay đổi các sản phẩm xuất khẩu hàng sơ chế, nguyện liệu thô sang các sản phẩm có hàm lượng chế biến cao hơn. Từ đó tránh sự khai thác quá mức làm cạn kiệt nguồn tài nguyên nhằm góp phần vào quá trình phát triển bền vững.
Sinh thái công nghiệp:
- Đây là cách tiếp cận mới và tổng thể đối với ngành sản xuất công nghiệp thân thiện với môi trường. Trong sinh thái công nghiệp, tất cả một giai đoạn của quá trình sản xuất đều tuân thủ chiến lược sau:
1)Tối đa hiệu quả năng lượng
2)Tối đa tái sử dụng
3)Giảm chi phí
4)Ngăn ngừa ô nhiễm
5)Bảo vệ các hệ sinh thái cảnh quan. Một hệ sinh thái công nghiệp hoàn hảo được thiết kế thành một dây chuyền các xí nghiệp trong đó chất thải của xí nghiệp này là nguyện liệu vào của xí nghiệp kia (mô hình này đã được thực hiện thành công ở công ty lọc dầu Kalundborg, Đan Mạch).
Sản phẩm thân thiện với môi trường:
- Sản phẩm được đánh giá thân thiện với môi trường khi nó có ít tác động đến môi trường trong chu trình sống (life cycle) của nó bao gồm: Nguồn gốc của sản phẩm, quá trình chế biến, quá trình sử dụng, quá trình phân huỷ. Các doanh nghiệp nên có cách tiếp cận chiến lược với vấn đề này. Đối với nhiều nước trên thế giới, các sản phẩm thân thiện với môi trường thường được phân biệt với các sản phẩm khác nhờ việc chúng được dán nhãn môi trường, và những sản phẩm này không những có hiệu quả về môi trường mà còn đưa lại lợi ích kinh tế. Ví dụ các sản phẩm pin, giấy, xà phòng giặt thân thiện với môi trường được dán nhãn “thiên thần xanh” của Đức đã đưa thị phần tăng gần 50% (từ 20 - 30 lên đến 40 - 60%). Không những thế, trong quá trình tiếp cận theo hướng thân thiện với môi trường chi phí của sản phẩm cũng được giảm xuống do tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nhiên liệu.
Áp dụng Hệ thống quản lý môi trường và đăng ký tiêu chuẩn ISO 14001:
- Trên tổng thể, việc áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường cho các doanh nghiệp có lợi cho các doanh nghiệp tỏng quản lý môi trường ở góc độ kinh tế đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, đặc biệt đối với các doanh nghiệp tham gia vào thị trường quốc tế, khi mà yếu tố môi trường đã được xem xét như một điều kiện hội nhập thị trường. Một số công ty ở các nước đang phát triển coi việc phấn đấu đạt chứng nhận ISO 14001 như là phương thức để tăng cạnh tranh xuất khẩu và tăng vị thế trên thị trường, ngay cả khi chưa có áp lực từ khách hàng nước ngoài. ISO 14001 có thể được xem như một công cụ marketing ở cả trong nước và quốc tế.
Cần khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia quản lý môi trường
Nhận thức được vai trò quan trọng của môi trường trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội, từ những năm 80, Việt Nam đã có nhiều hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường.
Năm 1991, Chính phủ thông qua Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững. Năm 1993, Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua và từ đó đến nay hệ thống các văn bản dưới Luật đã được nghiên cứu xây dựng và ban hành nhằm hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đồng bộ điều chỉnh các hoạt động có ảnh hưởng đến môi trường với mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Năm 2005, Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường đến 2010 và định hướng đến 2020 đã nêu cao vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp trong sự nghiệp bảo vệ môi trường. Trong đó nhấn mạnh: “Các tư nhân, các doanh nghiệp thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường theo các quy định của pháp luật, các chính sách và kế hoạch của Nhà nước như đầu tư cải thiện môi trường, tổ chức sản xuất sạch hơn để thực hiện hệ thống quản lý môi trường doanh nghiệp theo tiêu chuẩn ISO 14001 hoà nhập vào thị trường thương mại trong khu vực và quốc tế. Nhà nước có chính sách tư nhân hoá dịch vụ môi trường”.
Các chính sách của Nhà nước ta về môi trường được xây dựng theo 3 cách tiếp cận gồm các chính sách bắt buộc, các chính sách khuyến khích và các chính sách hỗ trợ. Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, hoàn cảnh cụ thể khác nhau, các chính sách này có thể được điều chỉnh nhằm tạo ra một cơ chế hiệu quả đối với công tác bảo vệ môi trường.
Đối với doanh nghiệp, các chính sách bắt buộc, khuyến khích, hỗ trợ được xây dựng theo nguyên tắc phòng ngừa, ngăn chặn khắc phục sự cố môi trường và cải thiên môi trường. Các chính sách này được pháp chế hoá trong Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản dưới Luật. Trong đó có một số quy định mang tính cưỡng chế về môi trường đối với doanh nghiệp, một số chủ trương, chính sách khuyến khích, hỗ trợ để doanh nghiệp thực hiện bảo vệ môi trường và tham gia bảo vệ môi trường chung.
Nghiên cứu cơ chế áp dụng các chính sách công cụ kinh tế, các chính sách tài chính nhằm khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng công nghệ sạch, tạo cơ chế sử dụng nguồn phí thu được để đầu từ trở lại cho bảo vệ môi trường. Từng bước thực hiện tốt việc lồng ghép kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi ngành, địa phương, mỗi doanh nghiệp và trong từng dự án.
Một số chính sách khuyến khích
Cùng với các chính sách mang tính bắt buộc doanh nghiệp phải chấp hành, Chính phủ cũng đã có và đang trong quá trình xây dựng các chính sách, chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp bảo vệ môi trường. Một số định hướng gồm:
- Giảm thuế, phí đối với các doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về môi trường.
- Khuyến khích tài chính đối với các doanh nghiệp đầu tư và tham gia đầu tư bảo vệ môi trường thông qua các công cụ kinh tế và cho phép thu phí môi trường, lệ phí dịch vụ môi trường…
- Tạo các lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường thông qua việc đưa yếu tố môi trường vào tiêu chuẩn xét duyệt một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội, một số giải thưởng, huy chương… cho các sản phẩm.
- Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14001, giảm bớt một số thủ tục pháp lý đối với doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 14001…
- Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào quá trình hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, cải thiệ môi trường, khắc phục sự cố môi trường.
Một số chính sách hỗ trợ
Việt Nam cũng đang thực hiện hàng loạt các chính sách hỗ trợ công tác bảo vệ môi trường, trong đó có hoạt động bảo vệ môi trường của doanh nghiệp. Đó là:
- Thành lập hệ thống quỹ môi trường quốc gia, ngành, địa phương hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường nói chung và doanh nghiệp nói riêng.
- Cơ quan quản lý môi trường các cấp thường xuyên phối hợp với các tổ chức xã hội, chính trị - xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng tổ chức các chiến dịch tuyên truyền, phổ biến pháp luật về môi trường, kiến thức bảo vệ môi trường nhằm nâng cao ý thức và hình thành ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng.
- Thường xuyên tổ chức các khoá tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ, kiến thức quản lý môi trường, công nghệ môi trường… cho đội ngũ cán bộ quản lý môi trường ở các doanh nghiệp. Thường xuyên mời các đại diện doanh nghiệp tham gia các hội thảo, hội nghị về môi trường, tham gia vào quá trình hoạch định các chính sách môi trường…
- Nhà nước cũng đang có các chủ trương, chính sách hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp gặp khó khăn. Trong các chính sách về phí, lệ phí bảo vệ môi trường luôn có chính sách ưu đãi một số loại hình doanh nghiệp cũng như có ưu tiên đối với các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường.
- Tranh thủ các dự án thuộc quỹ môi trường toàn cầu (GEF), các dự án hỗ trợ của chính phủ của các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ…
- Thực hiện chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng Hệ thống quản lý môi trường ( EMS) theo ISO 14001 với phương châm: “Để doanh nghiệp biết, doanh nghiệp chứng kiến, thuyết phục và giúp doanh nghiệp triển khai thành công”.
- Thành lập các diễn đàn/câu lạc bộ các doang nghiệp vì sự phát triển bền vững.
Kết luận
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, mục tiêu đã đặt ra đến năm 2020 là hoàn thành cơ bản công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường vì sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước.
Bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu quả tài nguyên là nghĩa vụ của doanh nghiệp trong một nền kinh tế mở cửa hội nhập khu vực và thế giới.
Để tăng vị thế của mình trên thị trường quốc tế, doanh nghiệp cần hiểu rõ và có chiến lược đối với sản phẩm của mình về mặt môi trường, đặc biệt quan tâm đến các vấn đề tiêu chuẩn ISO 14001, Nhãn môi trường.
Kết quả cụ thể mà những doanh nghiệp tham gia thực hiện sản xuất sạch vừa qua là thực tế hiển nhiên về việc lợi nhuận tăng lên của chính mỗi doanh nghiệp, đồng thời đóng góp hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường. Hy vọng rằng, những nỗ lực của giới doanh nghiệp nhằm hình thành phong trào thi đua để có lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm của mình cũng đồng thời song song với việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường hiệu quả nhất có thể.








