Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 01/10/2013 23:58 (GMT+7)

Nhà sử học bác học

Giáo sư Phan Huy Lê đã gọi ông là nhà sử học thuộc thế hệ những người đã có công xây dựng cho nền sử học hiện đại của đất nước.

Cho đến khi Giáo sư (GS) Văn Tân nêu vấn đề đánh giá vai trò Hồ Quý Ly thế nào cho đúng, nhà cải cách này vẫn bị đánh giá một chiều theo các sử gia phong kiến - họ đã chê trách ông rất nhiều. Nhưng vào những năm 1960-1961, GS Văn Tân đã nêu một nhận định khác, trong đó ông nhìn nhận nhân vật này với những đóng góp mang tính cải cách. Giờ đây, những đóng góp của Hồ Quý Ly đã được khẳng định, đồng thuận, dường như không còn ai đặt lại vấn đề nữa.

“Khi nghiên cứu và viết về các nhân vật lịch sử - văn hóa, nhà sử học cần có sự đánh giá họ một cách khách quan, công tâm, sòng phẳng. Phẩm chất này của GS Văn Tân được thể hiện khá rõ khi ông viết về Hồ Quý Ly, Nguyễn Trường Tộ”, PGS-TS Tạ Ngọc Liễn cho biết. Những bài viết về nhân vật lịch sử của GS Tân, theo ông Liễn, đều được viết toàn diện, chính xác bằng văn phong sảng khoái, giàu tình cảm.

Trong lĩnh vực sử học, GS Văn Tân đi sâu hơn cả vào nghiên cứu lịch sử cổ - trung đại Việt Nam. Điều này, theo một học trò là PGS-TS Nguyễn Minh Tường, có hai lý do chính. Một, GS được Viện trưởng Viện Sử học Trần Huy Liệu giao trách nhiệm là Tổ trưởng tổ cổ sử. Thứ hai, ông muốn phát huy sở trường vốn Hán học và Đông phương học của mình. Ông đã dành nhiều tâm sức tích lũy kiến thức từ thư tịch Hán Nôm của Việt Nam, Trung Quốc và sau đó là tài liệu tiếng Pháp của các sử gia Pháp hiện đại.

Cũng chính trên cái nền tư liệu, sử liệu dày dặn, GS Văn Tân đã có thể tránh được sai sót khi sử dụng chúng với tinh thần phê phán sử liệu thường trực. Điều này có thể thấy rõ khi GS Văn Tân trao đổi với GS Đào Duy Anh về tô tem của người Việt nguyên thủy.

Theo đó, do quá tin vào ý kiến của hai nhà sử học Pháp, GS Đào Duy Anh đã cho rằng chim lạc là tô tem của người Việt cổ. Không những phủ nhận thuyết này, GS Văn Tân còn đề xuất ý kiến rằng tô tem của người Việt cổ chính là con giao long, tức con rồng. Đầu tiên tô tem là một loài rắn (có thể là một giống cá sấu nào đó), rồi biến thành loài rồng.

Đồng ý với ý kiến đó, sau này trong tác phẩm Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, GS Đào Duy Anh viết: “Trong truyền thuyết con Rồng cháu Tiên, người Lạc Việt cũng còn ghi nhớ tín ngưỡng của tổ tiên xa là người Việt tộc thờ giao long làm vật tổ. Người Lạc Việt cũng còn giữ tục xăm mình thành hình trạng giao long”.

Cũng với tinh thần phê phán sử liệu như vậy, GS Văn Tân dù đề cao giá trị Đại Việt sử ký toàn thư, vẫn cảnh báo giới nghiên cứu về sự chính xác của bộ thông sử này. Ông công bố luận văn có đoạn: “Nói rõ hơn, khi sử dụng tài liệu của Đại Việt sử ký toàn thư, chúng ta cần nhớ rằng chính bộ sách quý này, cũng có những sai lầm không nhỏ về mặt tài liệu”. Kèm theo đó là hàng loạt dẫn chứng nhiều tư liệu sai trong đó như chiến tranh Việt - Tống thế kỷ 11, Phùng Hưng, Ngô Quyền...

Sau này, một bộ sách cũng được GS Văn Tân góp ý là Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thủy ở Việt Namcủa GS Trần Quốc Vượng và GS Hà Văn Tấn biên soạn. Theo PGS-TS Nguyễn Minh Tường, những góp ý của ông với bộ sách phần lớn đều đúng. Vì vậy, cho tới bộ Lịch sử Việt Namtập 1 do các GS Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh biên soạn, phần do GS Hà Văn Tấn chấp bút, ông Tường thấy tác giả đã sửa chữa hầu hết những sai sót mà GS Văn Tân góp ý.

Không chỉ ghi dấu trong sử học, GS Văn Tân còn quen thuộc với người dùng từ điển miền Bắc nước ta trong thời kỳ còn chiến tranh. Ông đã chủ biên cuốn Từ điển tiếng Việtmà dù có hơn chục người soạn sau này vẫn được gọi là Từ điển Văn Tân. “Kể từ khi ra mắt người dùng vào năm 1967 cho đến suốt cả một thời gian dài sau đó, có thể nói Từ điển tiếng Việt(Văn Tân chủ biên) là cuốn từ điển chiếm vị trí độc tôn về từ điển tiếng Việt trên thị trường sách ở nước ta”, PGS-TS Phạm Hùng Việt, Viện trưởng Viện Từ điển cho biết.

Cũng theo ông Việt, đây là cuốn từ điển được biên soạn công phu, thận trọng, đảm bảo tính chính xác cao về định nghĩa từ ngữ, thuận tiện cho người dùng. Hơn nữa, dù ra đời trong hoàn cảnh đất nước chia cắt, song cuốn từ điển phổ thông này vẫn xác định đối tượng là nhân dân toàn quốc, miền Bắc cũng như miền Nam và kiều bào ở nước ngoài. “Riêng về lượng sách in, có thể nói số lượng phát hành của cuốn từ điển này trong một lần in là cực lớn, khó có cuốn từ điển tiếng Việt nào sánh nổi”, ông Việt đánh giá.

GS Văn Tân cũng là người đã biên soạn cuốn Từ điển Trung - Việtđầu tiên vào năm 1956 - đóng vai trò cuốn từ điển đầu tiên, mang sứ mạng lịch sử như thế. Khi đó giao lưu Việt - Trung phát triển, trong nước số người học tiếng Trung càng đông. Song đó cũng là thời điểm nước ta chưa có một cuốn từ điển Trung - Việt thực thụ nào để người học, người sử dụng tiếng Trung tra cứu. Vì thế, người Việt Nam, vốn chỉ biết chữ Trung Quốc theo nghĩa văn ngôn, thường lúng túng trước những sách báo mới của Trung Quốc, gặp từ ngữ mới không biết tra cứu vào đâu.

Từ điển Trung - Việtcủa GS Văn Tân có hơn 7.000 chữ đơn và 20.000 từ ghép. Về tầm cỡ như vậy chưa phải lớn nhưng cũng bao gồm được vốn từ cơ bản của tiếng Hán hiện đại, đáp ứng tương đối đủ nhu cầu tra cứu của các độc giả Việt Nam thời bấy giờ”, PGS Lê Xuân Thại, Viện Ngôn ngữ cho biết.

Cũng thời kỳ đầu đặt nền móng cho văn học sau 1954, GS Văn Tân đã tham gia viết bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam5 quyển. Cả 5 người trong nhóm Sơ thảo gồm Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi, Hoài Thanh sau đó đều đóng vai trò cốt cán trong các viện lớn của Viện Khoa học xã hội sau này. “Với chủ biên Văn Tân, ông có mặt trong cả 5 quyển. Bao quát cả ba khu vực lớn: phần mở đầu, tổng luận, kết luận; văn học và văn hóa dân gian; văn học viết cả Hán và Nôm”, GS Phong Lê viết.

“Tài năng của GS Văn Tân bao quát trên nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn: từ nghiên cứu văn học, nghiên cứu văn hóa dân gian đến từ điển học, sử học…”, PGS-TS Nguyễn Văn Nhật, Viện trưởng Viện Sử học nói. “Có điều rất đáng ghi nhận là ở các lĩnh vực kể trên, GS Văn Tân đều có những đóng góp xuất sắc. Các tác phẩm của ông đều có tính chất gợi mở vấn đề, và có công đầu khai sơn phá thạch”.

GS Văn Tân, tên thật là Trần Đức Sắc (1913 - 1988) là con một gia đình nhà nho yêu nước tại thôn Kim Hoàng, xã Thọ Nam, H.Hoài Đức, Hà Tây (nay là Hà Nội). Từ 1938, ông cùng ông Trần Huy Liệu và một số người khác làm báo Tin tức, tờ báo công khai của Đảng. 1952 - 1955, ông học rồi tham gia giảng dạy ở khu học xá T.Ư tại Trung Quốc. Năm 1955, ông về công tác nghiên cứu tại Ban Nghiên cứu văn học - lịch sử và địa lý T.Ư rồi gắn bó với sử học, khoa học xã hội.

Ông là tác giả và đồng tác giả của hàng chục đầu sách, hàng trăm bài nghiên cứu, phê bình, dịch thuật, đáng chú ý là các tác phẩm: Tiếng cười Việt Nam (1957); Văn học trào phúng Việt Nam (1958); Thời đại Hùng Vương (1973); Ngô Thì Nhậm - Con người và sự nghiệp (1974)... Trong đó, cụm công trình Cách mạng Tây Sơn (1958); Nguyễn Huệ - Con người và sự nghiệp (1967) đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2000.

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.