Nguyễn Văn Siêu và tháp bút hồ Gươm
Chính trong thời gian này ông kết bạn thân thiết với Cao Bá Quát (1). Đến năm 1839, hai người vào Huế thi Hội, Cao hỏng (và sẽ còn hỏng mãi), Nguyễn đỗ phó bảng. Sau khi đỗ phó bảng, Nguyễn Văn Siêu được bổ làm ở toà Hàn lâm; năm sau 1839 làm Chủ sự ở bộ Lễ. Năm sau nữa thăng Viên ngoại lang. Cũng năm này, Minh Mệnh chết, Thiệu Trị nối ngôi. Vốn đã biết tài “thần Siêu”, nên vừa lên ngôi, Thiệu Trị chuyển Nguyễn vào Nội các làm Thừa chỉ. Ít lâu sau, Nguyễn kiêm giữ cả chức Thị giảng, phụ trách việc giảng sách cho các hoàng tử Hồng Bảo, Hồng Nhậm... Năm 1847, Hồng Nhậm lên ngôi (tức Tự Đức). Năm 1849, Nguyễn đi sứ nhà Thanh. Tự Đức có dặn: “Khanh học vấn uyên bác, chuyến này đi sang sứ, xem xét núi sông, phong tục, ghi chép kỹ, khi về tiến lãm”.
Khi về (1850), Nguyễn dâng lên quyển Vạn lý tập dịch trình tấu thảo, được thăng Học sĩ ở Viện Tập hiền. Năm sau ra làm Án sát Hà Tĩnh, rồi ASn sát Hưng Yên kiêm cả chức Tuần phủ tỉnh này. Thuở đó Hưng Yên hay bị vỡ đê, Nguyễn có gửi về kinh một số điều trần, song có lẽ không hợp ý vua. Ít lâu sau, ông bị giáng trật. Tới năm 1854, ông đệ sớ xin từ quan và được chấp nhận ngay. Từ đó cho tới khi qua đời (1872), non 20 năm ông ở Hà Nội, vui thú với thiên nhiên đất ngàn năm văn vật.
Người và cảnh Hà Nội tràn vào thơ Phương Đình không ít. Nhiều bài đẹp. Ngồi ngắm trăng trên sông Nhị hay đi chơi hồ Tây, ông đều có những vần thơ tả cảnh tinh tế. Ông cũng viết về cảnh đẹp hồ Gươm, về lầu chuông của đền Ngọc Sơn nhìn xuống.
Nhất trản trung phù địa,
Trường lưu đảo tải thiên.
Ngư chu xuân tống khách,
Hồi trạo túc hoa biên.
(Một chén trong lòng đất nổi
Nước dài trở lật trời qua.
Thuyền ca ngày xuân đưa khách,
Quay chèo về ngủ bên hoa).
Vạn hồ mênh mang mà ví như chén nước. Cách nhìn thật độc đáo. Nhưng chưa hết: nước lăn tăn chạy dài như lật trời mà chở về xa. Tứ thơ thật lạ mà táo bạo! Và thế là mùa xuân hiển hiện lên trong hình dáng một con thuyền bé đang quay mái chèo về nép cạnh bờ hoa. Xuân đẹp, xuân hữu tình nhưng man mác buồn, vì đây là xuân của một thời khá đen tối trong lịch sử!
Phương Đình còn nhiều bài viết khác nhau về hồ Gươm: Chơi hồ Gươm, Lên lầu chuông đền Ngọc Sơn, Trên núi ngọc trông xuống... Đề tài hồ Gươm quả là quen thuộc trong thơ ông. Và chính ông là người đã đứng lên trùng tu lại thắng cảnh này: sửa sang ngôi đền Ngọc, bắc lại cầu Thê Húc nối bờ phía đông với đảo Ngọc, rồi bồi đắp thêm cho núi Độc Tôn và xây trên đó ngọn Tháp Bút với ý tứ sâu sắc: Tả thanh thiên (Viết lên trời xanh) tức là viết tư tưởng lên trời xanh, so với mặt trời, với trăng sao, phải chăng đó là viết ra cái chính khí hạo nhiên của con người chân chính? Và đã có bút tất phải có nghiên. Cho nên cạnh Tháp Bút ngay ở đầu cầu Thê Húc, Phương Đình cho xây Đài Nghiên, một cái cửa cuốn trên có xây một cái nghiên bằng đá tạo theo hình nửa quả đào. Ở thành nghiên có khắc bài minh do Phương Đình soạn và Vũ Tá Trữ - đỗ tú tài, có hiệu là Thọ Pháp - viết theo lối chữ lệ:
Cổ hữu huyệt địa tiến nghiên
Chú đạo đức kinh
Nghiên đại phương nghiễn
Trứ Hán Xuân thu
Thạch tư nghĩa dã,
Phi tượng hà hình
Bất phương bất viên
Diệu tồn chư dụng.
Bất cao bất hạ,
Vị hồ quyết trung
Ứng thượng thai nhi thổ vân vật,
Hàm nguyên khí nhi ma hư không.
Bài minh thực ra viết liền một mạch, không có chấm câu, ý tứ lại hàm súc nên chúng tôi tạm chấm câu như trên và tạm dịch:
Xưa lấy hốc đất làm nghiên,
Chú kinh đạo đức
Nghiền nghẫm bên nghiên lớn
Viết sách Hán Xuân thu
Từ đá tách ra làm nghiên vậy,
Chẳng có hình dáng.
Không vuông, không tròn
Dùng vào mọi việc thật kỳ diệu.
Không cao, không thấp,
Ngôi ở chính giữa
Cúi soi hồ Gươm
Ngửa trông gò But đá
Ứng vào sao Thai mà làm ra mọi biến đổi,
Ngậm nguyên khí mà mài hư không.
Đầu bên kia hồ Gươm là lầu Đắc Nguyệt (được trăng). Qua lầu này tới ba nếp đền. Ở mặt nếp đền nhìn ra hồ, Nguyễn Văn Siêu cho khắc đôi câu đối:
Đạo hữu chủ trương, Đẩu Bắc văn minh tri tượng,
Nhân đồng chiêm ngưỡng, Giao Nam lễ nhạc chi đô.
(Đạo có chủ tế, đó là vẻ đẹp sáng của sao Bắc Đẩu,
Người đều ngửa trông, ấy thật đô thành lễ nhạc của cõi Nam).
Người xưa quan niệm, sao Bắc Đẩu là chủ mọi vì sao, là gốc của đạo lớn trong vũ trụ. Và lễ chính là trật tự xã hội, suy rộng ra là chính trị, còn nhạc là hoà hợp nhịp nhàng, tức là văn hoá. Đôi câu đối của Phương Đình đã khẳng định quả nơi đây - Hà Nội, Thăng Long là nơi muôn nẻo chầu về, là trung tâm chính trị và văn hoá của cả nước. Thời ấy nhà Nguyễn đã rời đô vào Huế trên sáu chục năm mà ông vẫn khẳng định như vậy, điều này cho thấy tầm vóc của bản lĩnh Phương Đình.
Phía ngoài đền ông cho xây đình “Chắn sóng” (trấn Ba Đình). Ở đây cũng có câu đối:
Kiếm hữu dư linh quang nhược thuỷ
Văn tòng đại khối thọ như sơn.
(Kiếm sót dư linh ngời ánh nước
Văn cùng trời đất thọ như non).
Như vậy với quần thể kiến trúc - mỹ thuật - văn học Ngọc Sơn mà ông là tác giả, Nguyễn Văn Siêu, xứng đáng là một nhà văn hoá, một nghệ sĩ danh tiếng của Thăng Long.
_________
(1) Cao Bá Quát kém Nguyễn Văn Siêu 10 tuổi nhưng họ kết giao rất thân mật và được đương thời ca tụng là “thần Siêu, thánh Quát” về văn chương.