Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 28/04/2006 00:03 (GMT+7)

Nguyễn Thị Lộ một nữ sĩ tài hoa, một nỗi oan bi thảm

Bênh cạnh quyền thần là nạn hoạn quan. Năm 1437, Nguyễn Trãi cùng với một số văn thần như Đào Công Soạn, Nguyễn Truyền, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn Liễu dâng sớ phê phán việc định nghi thức đại triều của hoạn quan Lương Đăng và tâu vua “Đăng là đứa hoạn quan, quanh quẩn chầu hầu bên cạnh vua, thần trộm lấy làm ngờ lắm”. Nguyễn Liễu nhân đó tâu thêm: “Từ xưa đến nay chưa bao giờ có cảnh hoạn quan chuyên phá hoại thiên hạ như thế”. Một hoạn quan là Đinh Thắng dám mắng lại rằng: “Hoạn quan làm gì mà phá hoại thiên hạ. Nếu phá hoại thiên hạ thì chém đầu ngươi trước”. Thế mà chính Nguyễn Liễu lại bị xử án đày ra châu xa. Lấy cớ Nguyễn Trãi trước lúc bị hành hình, tỏ ý hối tiếc không nghe lời Thắng, Phúc nên hai hoạn quan có thế lực lúc bấy giờ là Đinh Thắng, Đinh Phúc bị giết. Rõ ràng một số hoạn quan có dính dáng đến vụ án Lệ Chi Viên.

Trong cung đình, việc phế trưởng lập thứ và mưu đồ thoán đoạt luôn luôn xảy ra. Lê Thái Tổ phế Tư Tề đã được lập làm Hoàng thái tử để lập con thứ là Nguyên Long lên làm Hoàng thái tử và nối ngôi. Tư Tề là con trưởng, đã từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, năm 1427 được phong chức Tư đồ, cùng Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan làm con tin trong thời gian thương lượng với Vương Thông. Khi triều Lê thành lập, Tư Tế được phong làm Hữu tướng quốc, tước Quận vương. Năm 1429 trong lúc phong Nguyên Long làm Hoàng thái tử thì Tư Tế được phong làm Quốc vương tạm coi việc nước. Về sau do Tư Tề bị bệnh cuồng (?), năm 1433 vua Lê Thái Tổ quyết định chọn Nguyên Long kế thừa ngôi vua và giáng Tư Tề làm Quận vương, cấm văn võ bá quan không được tiếp xúc với Quận vương. Năm 1438 vua Lê Thái Tông giáng Tư Tề làm thứ nhân. Năm 1441, Thái phi Phạm Thị Nghiêu của Lê Thái Tổ bị Mã Kỳ bắt sang nước Minh, nay được trở về nước lại “định mưu thế lập” nên bị bắt vào Lam Kinh hầu Vĩnh Lăng rồi bắt phải tự tử. Trong các hoàng tử con Lê Thái Tông, Hoàng thái tử Nghi Dân bị giáng làm Lạng Sơn Vương và con thứ là Bang Cơ được lập làm Hoàng thái tử. Đằng sau việc thái lập đó là những địa vị, lợi ích của các phe nhóm trong cung đình và cũng là nguyên do khai thác, lợi dụng các thế lực mâu thuẫn trong triều đình.

Bộ quốc sử xưa nhất ghi chép lịch sử đời Lê Thái Tông là Đại Việt sử ký toàn thư, phần Bản kỷ thực lục, quyển XI. Bộ quốc sử này là tập đại thành nhiều bộ quốc sử của những sử gia nổi tiếng trong thời Trần, Lê sơ, Lê Trung hưng, từ Đại Việt sử kýcủa Lê Văn Hưu đời Trần, Đại Việt sử kýcủa Phan Phu Tiên, Đại Việt sử ký toàn thưcủa Ngô Sỹ Liên, Đại Việt thông giám thông khảocủa Vũ Quỳnh, Đại Việt thông giám tổng luậncủa Lê Tung đời Lê sơ đến Đại Việt sử ký bản kỷ thực lục, Đại Việt sử ký bản kỷ tục biêncủa nhóm Phạm Công Trư và Đại Việt sử ký toàn thưcủa nhóm Lê Hy đời Lê Trung hưng. Bộ quốc sử này do nhóm Lê Hy biên tập cuối cùng, biên soạn lịch sử từ đời Hồng Bàng đến năm 1675 và khắc bản in năm 1697 (3). Đại Việt sử ký của Phan Phu Tiên viết năm 1455 đời Lê Nhân Tông, chép tiếp lịch sử từ đời Trần Thái Tông cho đến khi quân Minh bị đuổi ra khỏi nước, nghĩa là cho đến năm 1427. Đại Việt sử ký toàn thưcủa Ngô Sỹ Liên viết năm 1479 đời Lê Thánh Tông chép lịch sử cũng đến năm 1427 và bổ sung thêm phần Ngoại kỷ với Kỷ họ Hồng Bàng. Như vậy Đại Việt sử ký toàn thưcủa Ngô Sỹ Liên dừng lại năm 1427 với sự nghiệp bình Ngô của Bình Định Vương Lê Lợi, chưa có các đời vua Lê sơ.

Phần lịch sử ba đời vua đầu thời Lê sơ là Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông từ năm 1428 đến năm 1459 do Ngô Sỹ Liên biên soạn trong đời Hồng Đức (1470 - 1497) khi giữ chức Quốc tử giám Tư nghiệp(hay Tế tửu?) kiêm Sử quan tu soạn, tác phẩm mang tên Tam triều bản kỷ. Đây là phần biên soạn chính thức của Quốc sử viện đời Hồng Đức, nhưng chưa công bố và được Lê Quý Đôn đánh giá là “kể việc cũng kỹ và có mối giường”(4). Đến đầu thế kỷ XVI, nhóm Phạm Công Trứ khi viết Đại Việt ký sử bản kỷ toàn thưbản kỷ thực lục, đã dựa vào Tam triều bản kỷ để viết về ba đời vua đầu thời Lê sơ rồi sau đó, nhóm Lê Hy đưa các bộ Đại Việt sử ký toàn thưhoàn thành năm 1697(5). Hiện nay Tam triều bản kỷcủa Ngô Sỹ Liên và phần tương ứng trong Đại Việt sử kýcủa nhóm Phạm Công Trứ đều thất truyền, nên không có điều kiện so sánh, đối chiếu văn bản để xác định tính xác thực trong phần viết của Ngô Sỹ Liên về ba đời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông. Trong Đại Việt sử ký toàn thưdo nhóm Lê Hy hoàn thành năm 1697, gồm 24 quyển thì lịch sử hai đời vua Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông nằm trong quyển XI của phần Bản kỷ thực lụcvà vấn đề tên tác giả là “Triều liệt đại phu Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quan tu soạn thần Ngô Sỹ Liên biên”. Điều ngày càng chứng tỏ quyển XI dựa trên Tam triều bản kỷ của Ngô Sỹ Liên, nhưng không thể biết các tác giả về sau trong khi biên tập có thêm bớt, sửa đổi gì không và ở mức độ nào.

Phân tích lịch sử sử học trên đây là nhằm làm sáng tỏ trong bộ quốc sử triều Lê, phần lịch sử đời Lê Thái Tông không phải do Ngô Sỹ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thưhoàn thành năm 1479 gồm 15 quyển. Tuy nhiên qua nội dung của Đại Việt sử ký toàn thưhoàn thành năm 1479, chúng ta thấy rõ tác giả phần này biên soạn trên quan điểm chính thống của vương triều và riêng về vụ án Lệ Chi Viên viết theo đúng quan điểm của những kẻ mưu giết hại Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ, do đó các sự thật lịch sử đều bị che đậy thậm chí xuyên tạc. Đọc và đối chiếu sử liệu cũng thấy có những điều không nhất quán đến khó hiểu. Ví dụ, ngày sinh của Bang Cơ, quyển XI , tờ 54a chép ngày 9 tháng 5, nhưng tờ 58a sau đó lại chép ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu (1441) sai nhau một tháng. Ngày Bang Cơ được lập làm Hoàng thái tử, quyển XI , tờ 54b chép ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu (1441), nhưng tờ 58a lại chép ngày 6 tháng 6 năm Đại Bảo thứ 3 tức năm Nhâm Tuất (1442), sai nhau cả ngày, tháng và năm, cách nhau đến hơn nửa năm. Một số nhân vật và sự kiện cũng đầy bí ẩn và khó giải quyết. Ví như trường hợp tướng Trịnh Khả. Ông là một tướng soái cao cấp của quân đội Lam Sơn, một công thần khai quốc của triều Lê đã từng bị Lê Sát ghen ghét, đẩy ra làm Đồng tổng quản vệ Nam Sách Hạ. Năm 1437, vua Lê Thái Tông điều ông về Kinh làm Hành quan tổng quản lĩnh quân Thiết đột, quân Ngự tiền, rồi phong chức Thiếu uý. Ông giữ vai trò quan trọng trong việc bố trí lại lực lượng để lật đổ Lê Sát. Năm 1442, ông phò giá nhà vua đi tuần miền Đông và duyệt binh ở Chí Linh. Ông cũng là người chăm lo thuốc men khi nhà vua bị “bệnh nguy kịch” và có mặt trong giờ phút lâm chung của nhà vua, nghĩa là ông biết rõ hơn ai hết cái chết của nhà vua Lê Thái Tông. Cũng chính ông cùng với các đại thần Nguyễn Xý, Lê Thụ nhận di mệnh cùng với Lê Liệt, Lê Bôi tôn Bang Cơ lên ngôi vua. Trong thời gian Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính, Trịnh Khả giữ chức Nhập nội tư mã, rồi phong làm Nhập nội suy trung tá lý Dương vũ công thần, kiêm Lỗi Giang phủ quân Thượng tướng quân, cai quản các vệ quân Tây Đạo, tước Quân Thượng hầu. Năm 1446, sau khi đánh thắng Chiêm Thành, ông được phong Nhập nội Thái uý kiểm hiệu Bình chương quân quốc trọng sự, Thượng trụ quốc, tước Quốc Thượng hầu. Ông được các nhà sử học đời sau như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đánh giá cao, coi cùng Lê Thụ là “bậc tế phụ đứng đầu” triều đình, “tính người giữ tin thẳng thắn, giữ phép công hết chức phận”, kiên quyết trừng phạt bọn tham nhũng(6). Nhưng bỗng nhiên đến năm 1451, sử biên niên ghi: giết Thái uý Lê Trịnh Khả và con là Lê Quất Tư Khấu Trịnh Khắc Phục và con là Phò mã đô uý Trịnh Bá Nhai”(7). Lê Quý Đôn cho biết là “có kẻ dèm pha rằng cha con ông kết đảng, Thái hậu cả giận, ông và con là Quát bị hại’(8). Năm 1453 khi vua Lê Nhân Tông nắm chính sự thì một trong những công việc đầu tiên của nhà vua là ra lệnh phục chức và ban 100 mẫu ruộng tế cho Trịnh Khả, Trịnh Khắc Phục cùng với Lê Sát, Lê Ngân, Lê Khiêm. Trong bài văn đại xá của Nghi Dân năm 1459 lại cho rằng: “Nguyễn Thái hậu muốn giữ vững quyền vị, ngầm sai nội quan Tạ Thanh dựng Bang Cơ làm vua, bắt trẫm làm phiên vương. Sau Tạ Thanh tiết lộ việc ấy, lây đến cả Thái uý Trịnh Khả và Tư thông Trịnh Khắc Phục, Thái hậu bắt giết cả đi để diệt hết người nói ra”(9). Nhưng đây là văn bản công bố nhằm biện hộ cho một cuộc biến giết vua cướp ngôi của Nghi Dân nên đầy rẫy những thông tin thất thiệt, thậm chí cả sự bịa đặt như cho rằng Lê Nhân Tông đã nhường ngôi báu cho Nghi Dân, nên tính xác thực cần được kiểm chính cẩn thận.

Trong tình trạng sử liệu như vậy, việc tìm ra những chứng cứ đáng tin cậy để phá vụ án Lê Chi Viên quả thật không đơn giản. Các nhà sử học cần phát hiện và thu thập thêm những nguồn sử liệu mới như văn bia, gia phả …và giám định chặt chẽ để tìm những thông tin mới liên quan đến vụ án. Nhưng chúng ta cũng đã có đủ cơ sở khoa học để khẳng định cái chết thảm khốc của Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ là âm mưu của một số thế lực trong triều đình nhà Lê muốn trừ khử một tài năng quá lỗi lạc, một nhân cách quá cao thượng, luôn luôn đối nghịch và cản trở những việc làm mờ ám của chúng. Từ đó không những chúng ta đã minh oan mà còn tôn vinh Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ lên xứng đáng với những công lao, cống hiến trong lịch sử. Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng, chính trị, một nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, địa lý học, một anh hùng cứu nước, một danh nhân văn hoá lớn của dân tộc và thế giới. Nguyễn Thị Lộ, tư liệu quá ít ỏi, gần như chỉ có một ít truyền thuyết, cả thơ xướng hoạ với Nguyễn Trãi, kể cả ở Thăng Long cũng như ở quê nhà là làng Hải Triều (tên Nôm làng Hới, nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Truyện Quan Phục hầu Nguyễn Trãitrong Công dư tiệp kýcủa Vũ Phương Đề chép theo truyền thuyết và cho biết thêm “Lúc trẻ, có văn tài, sở trường về thơ Quốc âm và Đường luật, nàng cùng ông (Nguyễn Trãi) xướng hoạ có đến trăm bài, nhưng không được truyền tụng. Nàng có hoạ vần “tình” của ông như sau:

Trượng phu miễn đại trượng phu chí,

Nữ tử phi nhi nữ tử tình.

(Kẻ trượng phu nên gắng chí đại trượng phu,

Con gái không phải là tình con gái) (10).

Chính sử triều Lê cũng ghi nhận là “người rất đẹp, văn chương rất hay”, giữ chức Lễ nghi học sỹ của triều đình. Bà xứng đáng là một nữ sỹ tài hoa, một người bạn đời tâm đầu, ý hợp của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi. Hai miếu thờ Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ mang tên Miếu Ông, Miếu Bà ở Khuyến Lương (Xã Trần Phú - Huyện Thanh Trì - Hà Nội) cũng đã nói lên tấm lòng quý mến và tôn vinh thầm lặng của nhân vật. Vì vậy tôi rất tán đồng và hoan nghênh chủ trương phục hồi và tôn tạo những di tích lịch sử-văn hoá này của chính quyền địa phương và các vị hảo tâm.

_________________

1.Theo Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, truyện Lê Sát, Lê Ngân, Phạm Vấn, Toàn tập, Tâp III, trang 195, 200, 217.

2. Đại Việt sử ký toàn thư, Q. XI, tờ 41b.

3. Phan Huy Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, tác giả, văn bản, tác phẩm, trong ĐVSKTT, NXB KHXH, Hà Nội 1993, T.I, trang 11-95.

4. Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, Bài tựa, Toàn tập, T. III, sđd, trang 20-21.

5. Phan Huy Lê, Ngô Sỹ Liên và Đại Việt sử ký toàn thư, trong Tìm về cội nguồn, NXB Thế giới, Hà Nội 1998, T. II, trang 602 -607.

6. Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, Truyện Trịnh Khả, trong Toàn tập, T. III, sđd, trang 207 – 213.

Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí, sđd, T.I, trang 261 – 263.

7. ĐVSKTT, sđd, Q. XI, tờ 88a.

8. Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, Truyện Trịnh Khả, , trong Toàn tập, T. III, sđd.

9. ĐVSKTT, sđd, Q. XI, tờ 98a.

10. Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký, trong Tổng tập tiểu thuyết Việt Nam, NXB Thế giới, Hà Nội 1997, T.I, Trang 623 – 624.

Nguồn Xưa và nay, số 146,tháng 8 năm 2003.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

An Giang: 25 giải pháp của Hội thi Sáng tạo kỹ thuật được vinh danh
Ngày 14&15/6, tại TP. Long Xuyên, Hội đồng Giám khảo Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh lần thứ XIV (năm 2024–2025) đã tổ chức chấm chọn vòng chung khảo với sự tham gia của các chuyên gia đến từ các sở, ban, ngành cấp tỉnh, doanh nghiệp, giảng viên Trường Đại học An Giang, Trường Cao đẳng Nghề An Giang cùng các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh.
Đồng Tháp: Lan tỏa tinh thần sáng tạo trong Thanh Thiếu niên, Nhi đồng
Sáng ngày 16/6, Ban Tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Thanh Thiếu niên, Nhi đồng tỉnh đã tổ chức Lễ Tổng kết và Trao giải Cuộc thi lần thứ 18, năm 2025. Tham dự có Thường trực Ban Tổ chức Cuộc thi; đại diện lãnh đạo các sở ngành Tỉnh, UBND các huyện, thành phố; quý thầy cô giáo và các học học sinh.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.