Nguyễn Mậu Kiến một người hết lòng vì dân vì nước
Ông người làng Động Trung tổng Xuân Vũ huyện Châu Định phủ Kiến Xương (nay là thôn 7 xã Vũ Trung huyện Kiến Xương). Nguyễn Mậu Kiến sinh ngày 8 – 5 năm Kỷ Mão (1819) mất ngày 8 – 9 năm Kỷ Mão (1879), hưởng thọ 61 tuổi.
Nguyễn Mậu Kiến sinh trưởng trong lúc lịch sử bi tráng của dân tộc, thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta và những cuộc kháng chiến oanh liệt chống Pháp của nhân dân ta. Ông được đánh giá là “người tài đức vẹn toàn”, “người xướng nghĩa đầu tiên ở Thái Bình”. Nguyễn Mậu Kiến còn được nhà yêu nước nổi tiếng Phan Bội Châu ca ngợi là “một vị thần tiên”. Trong các danh nhân người Thái Bình, Nguyễn Mậu Kiến là một trong số ít người được như thế.
Nguyễn Mậu Kiến sinh trưởng trong một gia đình giàu có nổi tiếng nhưng thuở nhỏ ông sống với mẹ ở quê ngoại (làng Gia Hoà, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) vì là con vợ lẽ, lại ở xa quê nên ông không được hưởng cảnh giàu sang, thời niên thiếu từng phải phụ giúp công việc với mẹ để kiếm sống. Ông cũng không có cái may mắn được cắp sách đến trường nhưng cuộc sống ấy đã dạy ông đạo lý làm người, giúp ông gắn bó, thông cảm với những người lao động nghèo khổ.
Sự may mắn rồi cũng đến với Nguyễn Mậu Kiến, mẹ cả ông không có con trai, buộc bà phải chấp nhận đưa mẹ con ông về chung sống cùng gia đình và sau này chính ông đã được thừa hưởng cái gia sản đồ sộ, lắm ruộng nhiều thóc do cha và mẹ cả ông để lại, cũng chính ông đã biết làm cho cái gia sản ấy tăng lên, rồi đem những của cải ấy dùng vào việc có ích cho dân cho nước.
Những năm tháng đầu trở về sống trong cảnh giàu sang ở quê nội, Nguyễn Mậu Kiến đã được cha mẹ cho đi học. Mời thày về nhà kèm cặp cho học đã dự các kỳ thi nhất nhị trường, dự thi hương nhưng không đỗ… Ông tự thấy con đường thành đạt bằng khoa cử với ông là khó khăn nên ông chuyên tâm lo việc mở mang phát triển kinh tế, tổ chức đời sống cho dân trong vùng và học hỏi trong đời sống thường ngày. Với ông, những kiến thức học được trong cuộc sống đã giúp ông thành tài, giúp ông nổi tiếng, nhờ thế ông được cử vào học ở trường Quốc Tử Giám. Tự Đức năm thứ 18 (1865), Nguyễn Mậu Kiến 46 tuổi được dự khoa thi hoành từ, rồi được bổ sung ra làm quan nhưng ông từ chối vì mẹ già đang ốm nặng. Hoành từ theo ghi chép của nhà sử học Phan Huy Chú là “để chọn người văn hay học rộng”, “đại khái chỉ tuỳ tài chọn dùng không bó buộc”… (1). Không thể nói Nguyễn Mậu Kiến đỗ khoa hoành từ là đỗ cử nhân, hoàng giáp hay bác học như một số tác giả viết, nhưng Nguyễn Mậu Kiến là tấm gương hiếu học, học ở trường, học trong sách vở, học trong đời sống thường ngày để trở thành tài, trở thành một người am hiểu về thiên văn, một tác gia với nhiều tác phẩm về nhiều lĩnh vực… và với việc dự thi khoa hoành từ lại càng khẳng định ông là người có học lực sâu rộng, là người “học thức khả quảng” như sử sách ghi nhận.
Cuộc đời Nguyễn Mậu Kiến là tấm gương sáng về nhiều mặt không chỉ ở tinh thần ham học hỏi, ở kiến thức sâu rộng mà còn là người hết lòng vì dân, vì nước.
Với tư cách là một điền chủ lớn khi dân bị mất mùa, bị đói, ông đã đem của cải của nhà ban phát cứu dân khỏi đói. Ông mở mang thêm ruộng, cải tạo đồng ruộng để mùa vụ tươi tốt. Dân trong vùng bị bọn cướp quấy nhiễu, ông tổ chức đánh cướp để dân yên ổn làm ăn. Dân không có trường học, ông xây nhà, mở trường mời thày về dạy học. Dân không có sách học ông mở nhà in, khắc ván in sách, lập thư viện cho dân… Để duy trì được việc học, ông hiến ruộng nhà làm “học điền” cấy lúa lấy thóc gạo nuôi thầy… Nhiều gia đình có người thân phải đi lính gặp khó khăn, ông hiến ruộng làm “binh điền” để giúp đỡ những gia đình binh lính nghèo khó có ruộng cấy.
Nguyễn Mậu Kiến làm những việc trên khi ông chỉ là một điền chủ, một người dân. Có người đã từng khuyên ông “bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính” (nghĩa là không phải địa vị của mình thì lo việc chính sự làm gì) nhưng ông vẫn làm do lương tâm, do tình cảm gắn bó với dân, do lo cho dân. Vịêc làm của Nguyễn Mậu Kiến được triều đình ban khen biển vàng “hiếu nghĩa lạc quyên”, “Lạc quyên nghĩa môn” ghi nhận gia đình ông là một nhà hào hiệp, thích làm việc nghĩa.
Nói về cuộc đời của Nguyễn Mậu Kiến không thể không nói đến sự đóng góp của ông với nước, con người tài đức như ông không thể cứ quanh quẩn với ruộng đồng, với việc làm nơi thôn xóm. Thời cơ đem tài năng ra cống hiến cho đất nước rồi cũng đến. Năm Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) triều đình có chiếu chỉ cho phép các quan trong triều ở các tỉnh được tiến cử những người hiền tài ra phục vụ đất nước. Nguyễn Mậu Kiến được tiến cử, được đánh giá là người có “học thuật khả quảng” (học thuật sâu rộng) được bổ sung ra làm quan.
Từ ngày được bổ dụng đến khi mất, Nguyễn Mậu Kiến có 13 năm ở chốn quan trường, cuộc đời làm quan của ông nhiều bước thăng trầm từ chức Bang biện Nam Định, Hải Dương, thăng Án sát sứ Quảng Yên, Án sát Lạng Sơn, quyền Tuần phủ Cao Bằng rồi lại về làm Án sát sứ Lạng Sơn. Trong những năm công cán ở các tỉnh biên giới phía Bắc ông đã từng cầm quân đi đánh dẹp bọn giặc cướp, vì có công nên được phong hàm Quang Lộc tự khanh. Năm 1875 giữa ông và tuần phủ Lương Quý Chính có mâu thuẫn trong khi thực thi công việc, vụ việc phải tâu về triều, ông bị đình chỉ chức vụ chờ triều đình phán xét, vụ án kéo dài trong hai năm và cuối cùng ông bị cách chức Án sát xuống làm lính ở quân thứ Tuyên Thái vào năm 1876.
Sau nhiều tấu trình của thống đốc quân vụ đại thần Hoàng Tá Viêm, năm 1878, Nguyễn Mậu Kiến được cử về sơn phòng Hưng Hoá và ngày 8 - 9 - 1879 ông đã mất tại nhiệm sở - Đồn Vàng, Hưng Hoá, triều đình truy phong cho ông hàm Bố Chính (2).
Nguyễn Mậu Kiến mất nhưng những việc làm ân nghĩa của ông với nước luôn là tấm gương sáng để người đương thời và người đời sau ghi ơn, noi theo.
Chú thích
1.Lịch triều hiến chương loại chí Phan Huy Chú - Nxb Giáo dục, 2008, tập II, tr 13.
2. Trước đây một số bài viết có nói đến việc bất đồng chính kiến giữa án sát Nguyễn Mậu Kiến với tuần phủ Lương Quy Chính vào năm 1871 - 1872, trong khi chờ xử lý năm 1873 ông đã bỏ về quê cùng các con mộ quân đánh Pháp giữ thành Nam Định, nhưng theo ghi chép của Đại Nam thực lục thì sự việc trên xảy ra vào năm 1875, năm 1876 có án kỷ luật. Như vậy năm 1873 ông vẫn giữ chức án sát Lạng Sơn, việc chống Pháp ở quê nhà là do các con ông chủ xướng, dựa vào uy tín của ông để tập hợp lực lượng.