Nguyễn Lữ - danh tướng hậu cần một thuở
Nguyễn Nhạc - con người lịch thiệp, quảng giao, mưu trí như thần. Nguyễn Huệ - Đại danh tướng trăm trận trăm thắng, nhà chính trị xuất sắc... Nguyễn Lữ như cái bóng bên hai đại thụ trên. Sự thật, trong những chiến công lẫy lừng của quân đội Tây Sơn, Nguyễn Lữ đã có những đóng góp đặc biệt quan trọng, to lớn.
Ông sinh năm Giáp Tuất (1754). Về hình thể và tính tình, khác hẳn hai người anh: vóc dáng nhỏ nhắn, tính tình nhu mì. Thuở nhỏ, cùng hai anh em học văn võ thầy Trương Hiến, nhưng Nguyễn Lư thiên về học văn hơn. Về võ, ông thục luyện các môn miên quyền, kiếm thuật. Võ nghệ của ông cũng vào bậc siêu quần ở đất Tây Sơn. Những khi chiêu nạp các bậc vũ dũng, hào kiệt về với nhà Tây Sơn, ông thường dùng lời lẽ để thuyết phục, chỉ khi thật cần thiết mới dùng đến đường quyền kiếm.
Trong 15 năm tiến công các thế lực Trịnh, Nguyễn, dựng nghiệp nhà Tây Sơn, Nguyễn Lữ cũng đã nhiều phen xông pha trận mạc, lập nhiều chiến công hiển hách. Trên trận tiền, Nguyễn Lữ là một chiến tướng không thua kém những tướng lĩnh xuất sắc của quân Tây Sơn. Nhưng trên mặt trận hậu cần, ông là một viên tướng xuất chúng, không ai sánh kịp. Có thể thâu tóm vào hai mặt lớn sau:
Một là vận động, thu phục đồng bào dân tộc ít người hưởng ứng, ủng hộ, tham gia vào sự nghiệp nhà Tây Sơn. Ông rất am hiểu phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tiếng nói của các dân tộc Ba-na, Xơ-đăng, Gia-rai, Chăm... Thời kỳ trước khi khởi nghiệp, Nguyễn Lữ đã cùng Nguyễn Nhạc đi khắp các buôn làng vùng An Khê, Gia Lai, Kon Tum, Dak Lăk, tây Bình Định v.v... để vận động nhân dân tụ nghĩa. Ông là quân sư số một của Nguyễn Nhạc trong công việc khó khăn, phức tạp và tế nhị này.
Những lúc cần thiết phải dùng thủ thuật để lôi kéo người dân, ông đã lập kế “thần hoá” Nguyễn Nhạc khiến họ đã khẩu phục càng thêm tâm phục uy danh Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ. Khi Nguyễn Nhạc rút về Tây Sơn Hạ chuẩn bị khởi binh, việc chiêu binh mãi mã ở vùng Tây Sơn Thương giao lại cho Nguyễn Lữ.
Theo sử sách, quân ngũ Tây Sơn khi dựng nghiệp có khoảng 150.000 người được chia thành 12 đơn vị, trong đó có 2 đơn vị là người dân tộc thiểu số. Đây là đội quân tiên phong, dũng mãnh dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ. Kỵ binh có hơn 2.000 chiến mã, tượng binh có hơn 100 thớt voi. Chính Nguyễn Lữ và các tuỳ tướng của ông đã chiêu tập, tuyển lựa những chiến binh, ngựa đưa về cho Nguyễn Huệ tổ chức, huấn luyện. Voi cùng người điều khiển giao cho nữ tướng Bùi Thị Xuân lập đội tượng binh.
Năm Quý Tỵ (1773), Tây Sơn khởi binh chiếm thành Quy Nhơn. Đại quân do Nguyễn Huệ thống lĩnh tiến công ra phía Bắc. Vùng phía Nam, từ Phú Yên trở vào Bình Thuận vẫn thuộc về chúa Nguyễn. Đây là vùng đồng bào Chăm, Ra-glai, Mạ... chiếm số đông, nên Nguyễn Lữ được Nguyễn Nhạc phái vào vùng này để thuyết phục đồng bào các dân tộc theo về với nghĩa quân Tây Sơn.
Nhờ có sự hậu thuận của các dân tộc thiểu số nên cuộc Nam chinh của quân Tây Sơn ngay cuối năm ấy, tuy quân số ít nhưng vẫn nhanh chóng đánh đuổi được lực lượng còn khá hùng hậu của chúa Nguyễn, làm chủ các phủ Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận.
Hai là xây dựng hậu cứ, sản xuất lượng thảo, vũ khí, quân trang quân dụng. Ngay từ những năm chưa đến tuổi 20, Nguyễn Lữ đã được giao phó một nhiệm vụ trọng đại là cùng với Nguyễn Thung - một đại phú hộ đất Tây Sơn, cô Hầu - vợ thứ của Nguyễn Nhạc, người Ba-na, xây dựng căn cứ, tổ chức sản xuất lương thực - thực phẩm, lập xưởng rèn đúc vũ khí; sắm sửa quân trang quân dụng.
Sau ngày dựng cờ khởi nghĩa có thêm nữ tướng Bùi Thị Xuân cùng chuyên lo việc hậu cần. Khu sản xuất lương thảo chính ở miền Tây Sơn Thượng rộng hàng mấy ngàn mẫu, suốt một dải đất phì nhiêu từ đầu đèo An Khê vào Cửu An, Tú Thuỷ (thuộc huyện An Khê, tỉnh Gia Lai ngày nay) đến Vĩnh Sơn, Vĩnh Hiệp (thuộc huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định) được khẩn hoang, lập trang trại trồng trỉa lương thực, chăn nuôi trâu, bò, ngựa. Các cơ sở sản xuất vũ khí, quân trang, quân dụng được thiết lập tại các vùng núi hiểm trở phía tây đất Phú Phong, Đồng Phó, Vĩnh Thạnh.
Bản doanh hậu cần dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Lữ đóng ở núi Đông Phong (Tây Sơn Hạ). Quân sĩ gọi ngọn núi này là núi Lãnh Lương, gọi tắt là hòn Lương. Tên ấy vẫn còn truyền cho đến nay: hòn Lương hay hòn Tư Lữ. Chỉ trong một thời gian ngắn, 4 tháng cuối năm Quý Tỵ ấy, nghĩa quân đã đánh tan các đạo binh lớn của chúa Nguyễn, chiếm lĩnh toàn bộ miền đất từ Quảng Nam đến Bình Thuận chính là nhờ vào các tướng lĩnh tài ba, quân sĩ tinh nhuệ và vũ khí, quân trang quân dụng sung mãn.
Quân Tây Sơn hành binh bằng phương tiện thô sơ với một tốc độ cực nhanh nhưng tinh thần, kỷ luật, sức khoẻ của hàng vạn quân sĩ vẫn được bảo toàn tốt là điều khá kỳ bí trong lịch sử quân sự thế giới thời trung đại. Một trong những yếu tố tạo nên sự thần diệu ấy chính là lương thực, thực phẩm trang bị cho binh sĩ trên đường hành tiến: bánh tét, bánh tráng ỉu và thịt bò thưng - những loại lương khô độc đáo, tuyệt vời.
Bánh tét được làm từ gạo nếp, đậu xanh và một ít thịt heo. Loại lương khô này có thể bảo quản được mươi ngày nhưng vẫn còn nặng nề, ăn nhiều ngấy, khó tiêu. Loại lương khô chủ công là bánh tráng ỉu làm bằng bột gạo với mè (vừng) có pha thêm một độ muối vừa phải. Mỗi cái bánh có đường kính bề mặt khoảng 30cm, khô nhưng ỉu, không dòn, có thể gấp tư lại khi vận chuyển. Khi ăn chỉ cần nhúng nước, không phải đun nấu rườm rà, mang vác lại gọn nhẹ. Thực phẩm chính là thịt bò thưng. Thịt bò hoặc trâu rim khô với nước mắm, hạt tiêu, hành. Bánh tráng ỉu và thịt bò thưng là sáng kiến tập thể của Nguyễn Lữ và Bùi Thị Xuân theo sự truyền tụng của nhân dân vùng Phú Phong - Tây Sơn.
Năm Bính Ngọ (1786), sau khi dẹp yên chúa Trịnh ở phía Bắc, đánh đuổi chúa Nguyễn khỏi miền đất phía Nam, Nguyễn Nhạc xưng Trung ương Hoàng đế, phong Nguyễn Huệ là Bắc Bình vương, trấn thủ đất Bắc; Nguyễn Lữ làm Đông Định vương, quản đất Gia Định, từ Bình Thuận đến Hà Tiên. Tháng 7 năm Đinh Mùi (1787), Nguyễn Ánh tiến đánh thành Gia Định, Nguyễn Lữ và các tuỳ tướng không chống đỡ nổi phải bỏ thành chạy về Quy Nhơn chịu tội với vua anh.
Với đầu óc thực tế, khách quan, Nguyễn Lữ - có lẽ là người đầu tiên trong các tướng lĩnh nhà Tây Sơn sớm chân nhận được những điểm mạnh cả về thiên thời, địa lợi, nhân hoà của Nguyễn Ánh. Ông đã trình bày cặn kẽ những điều này với Nguyễn Nhạc và nhắn gởi với Nguyễn Huệ trước khi xin giao lại mọi chức quyền để về quê sinh sống. Triều đình Gia Long – Minh Mạng đã ra sức truy tìm tông tích Nguyễn Lữ nhưng không được vì ông đã hoà mình vào với đồng bào dân tộc Ba-na vùng rừng núi Gia Lai - tây Bình Định.
Công tích đặc biệt lớn lao trong việc vận động đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia vào cuộc khởi nghĩa; tổ chức, xây dựng lực lượng hậu cần hùng mạnh cho quân đội Tây Sơn; đức độ trong sáng, không màng danh lợi, không ham địa vị, chức quyền... của Nguyễn Lữ đã trở thành một huyền thoại lưu truyền hậu thế. Trong thâm tâm người dân đất Tây Sơn, An Khê, Vĩnh Thạnh... xưa, hình ảnh thầy Tư Lữ mãi mãi là một thủ lĩnh hiền hoà.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số92, 7/2006, tr 8