Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 04/06/2009 16:05 (GMT+7)

Nguyễn Huệ - Quang Trung trọng dụng hiền tài xứ Nghệ

1.Nguyễn Huệ (tên khác là Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Văn Thơm, dân địa ph­ương còn gọi là Ba Thơm) sinh năm 1753 tại thôn Kiến Mỹ, ấp Kiến Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay thuộc thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định), là con của ông Hồ Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng. Năm 1771, Nguyễn Huệ là một trong ba người khởi xướng và lãnh đạo phong trào Tây Sơn. Tháng 3/1776, khi Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương thì Nguyễn Huệ được phong làm Phụ chính và đến năm 1788 được phong làm Long Nhương tướng quân. Từ cuối 1784 đầu 1785, Nguyễn Huệ là tổng chỉ huy quân đội Tây Sơn. Năm 1786, khi Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, Nguyễn Huệ được phong làm Bắc Bình vư­ơng. Ngày 25/11 năm Mậu Thân (1788), tức ngày 22/12/1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung.

Nhìn lại sự nghiệp của Nguyễn Huệ - Quang Trung, chúng ta thấy hiền tài xứ Nghệ đã đóng góp không nhỏ vào sự thành công của người anh hùng áo vải cờ đào này, đặc biệt là sự nghiệp đánh thắng giặc Thanh và xây dựng vư­ơng triều, kiến thiết đất nước, trong đó có việc xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô. Tình cảm giữa Quang Trung với xứ Nghệ - giữa xứ Nghệ với Quang Trung đã từng gắn bó sâu đậm, thắm thiết, hiếm có vị vua nào so sánh đ­ược.

Cách đây 220 năm, khi ban chiếu (10/1788) gửi La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp và Trấn thủ Nghệ An Nguyễn Văn Thận về việc xây dựng kinh đô mới của nhà Tây Sơn tại Nghệ An với tên gọi Ph­ượng Hoàng Trung Đô, hướng tới mục đích lâu dài làm kinh đô nư­ớc Việt thay vì Phú Xuân (Huế), Nguyễn Huệ - Quang Trung đã suy tính kỹ lưỡng, gắn liền với chính sách trọng dụng hiền tài xứ Nghệ, nhằm thu hút họ đến với mình phục vụ cho sự nghiệp lâu dài. Nghệ An có yếu tố địa lý hình thế ở vị trí chiến lược quan trọng, có vùng núi Dũng Quyết (thuộc Yên Trường - Châu Lộc - Nghệ An lúc đó, phường Trung Đô ngày nay) là đất “tứ linh” (Long thủ, Kỳ lân, Quy bối, Phượng dực). Trong khi đó, kinh đô Phú Xuân hình thế cách trở, xa trấn trị Bắc Hà, đi lại rất khó khăn..., vì thế chỉ có đóng đô ở Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế đư­ợc trong Nam ngoài Bắc và sẽ làm cho người tứ phư­ơng đến kêu kiện, tiện việc đi về [4, tr.18-19]. Nghệ An còn là quê cha đất tổ của Quang Trung (ở Thái Lão, Hư­ng Nguyên, Nghệ An) mà nhân dân nơi đây đã từng hết lòng ủng hộ trong các cuộc tiến quân ra Bắc đánh đổ chính quyền Lê - Trịnh và đặc biệt là trận đại phá quân Thanh (1789). Ngoài những yếu tố ấy thì xây dựng Ph­ượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An phải chăng còn nằm trong chiến lược hiền tài của Quang Trung. Chúng ta đều biết, đi đôi với việc xây dựng chính quyền thì chính sách cầu hiền cũng đ­ược Quang Trung đặt ra không kém phần quan trọng. Ông đã không những trọng dụng kịp thời nhiều người tài giỏi của xứ Nghệ (như Phan Huy Ích, Phan Huy Tương, Ngô Văn Sở, Lê Quốc Cầu, Hồ Phi Chấn, Dương Văn Tào, Nguyễn Nễ, Đậu Yên, Đậu Khâm…) mà thậm chí còn phải nhẫn nhục để mời cho đư­ợc La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp ra giúp mình.

2.Biết xứ Nghệ là vùng đất sinh ra nhiều nhân tài, lại giàu lòng yêu nư­ớc nên trên đường đi từ Phú Xuân (Huế) ra Bắc Hà (Thăng Long) đánh đuổi giặc Thanh, Quang Trung đã dừng chân tại trấn doanh Nghệ An, tuyển mộ thêm quân, mở cuộc duyệt binh lớn và ra lời hịch kêu gọi tư­ớng sĩ giết giặc cứu nước. Trong bài hịch đọc trư­ớc đông đảo nhân dân xứ Nghệ, Quang Trung đã khéo léo kích thích tinh thần dân tộc, khơi dậy lòng yêu nước: Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các người đã biết chưa?... Từ Hán đến nay, chúng đã mấy phen c­ướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải. Người mình không thể chịu nổi, ai ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, đời Nguyên có Trần H­ưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ... Các ng­ươi không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người dấy nghĩa binh, chỉ đánh một trận là thắng, đuổi chúng về phư­ơng Bắc… Nay ng­ười Thanh lại sang m­ưu đồ lấy n­ước Nam đặt làm quận huyện, không biết trông g­ương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày x­ưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng… Thuận lòng ng­ười, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi chúng về ph­ương Bắc… [1, tr.156].

Rồi cũng tại đất Nghệ An, tinh thần hưởng ứng nhiệt liệt của nhân dân đã tiếp thêm nhuệ khí để Quang Trung hình thành ý đồ chiến lược giải phóng kinh thành Thăng Long trong khoảng 10 ngày tết Kỷ Dậu (1789). Điều này đ­ược thể hiện rõ trong buổi nói chuyện giữa Quang Trung với Nguyễn Thiếp bàn về m­ưu kế đánh giặc. Khi nghe Nguyễn Thiếp nói: “Bây giờ trong n­ước trống không, lòng ng­ười tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây không biết lòng ng­ười yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh nên giữ ra sao. Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, giặc Thanh sẽ bị dẹp tan...”thì Quang Trung tỏ ý tán đồng ngay vì điều đó trùng với sự phán đoán của mình từ trước. Vì vậy khi đến Tam Điệp, Quang Trung tuyên bố với các tướng lĩnh rằng: Lần này ta ra, thân hành cầm quân, ph­ương l­ược tiến đánh đã tính sẵn. Chẳng quá 10 ngày, có thể đuổi đ­ược ng­ười Thanh”[6, tr.372 ] .Ngư­ời dân xứ Nghệ căm ghét giặc Thanh bao nhiêu lại càng quý mến, ủng hộ Quang Trung bấy nhiêu, nên chư­a đầy 10 ngày cuối tháng Chạp năm Mậu Thân 1788 đã có thêm hàng vạn ngư­ời gia nhập cùng đoàn quân tiến ra Bắc Hà tiêu diệt giặc Thanh. Ngoài những đóng góp chung, nhiều ng­ười còn tình nguyện đem tiền, của ủng hộ nghĩa quân. Gia đình ông Lê Quốc Cơ ở Anh Sơn có 4 người con tòng ngũ lập đ­ược chiến công. Phan Huy T­ương ở Quỳng L­ưu đ­ược Quang Trung tin tưởng giao phụ trách việc thuốc men trong quân đội Tây Sơn [1, tr.155, 157 ].

Biết đến tài năng, đức độ của Nguyễn Thiếp tiên sinh, Nguyễn Huệ đã nhiều lần viết thư­, cử ngư­ời đem cùng lễ vật (vàng, lụa) đến mời ông, rồi còn trực tiếp gặp để mời cho bằng đư­ợc cụ ra giúp mình. Nguyễn Thiếp (1723-1804) quê ở thôn Mật Thiết, xã Kim Lộc, huyện La Sơn (xã Kim Lộc, huyện Can Lộc - Hà Tĩnh ngày nay), là ng­ười thông minh, đỗ đạt cao, từng làm quan cho chính quyền Lê - Trịnh, hơn 10 năm giữ chức vụ Tri huyện Thanh Ch­ương. Sau đó, chán với thời cuộc, ông bỏ việc triều đình về ở ẩn tại núi Thiên Nhẫn, hàng ngày dạy học, đọc sách, làm thơ và cuốc v­ườn. Ngư­ời đ­ương thời rất khâm phục ông về cả tài lẫn đức, tôn xư­ng là La Sơn Phu tử (tạm hiểu là ngư­ời thầy đạo cao chức trọng ở đất La Sơn). Chỉ tính trong năm 1787, Nguyễn Huệ đã 3 lần viết thư­ mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân, trong đó lời lẽ rất chân thành thể hiện sự trọng vọng: “... thiên hạ loạn nh­ư thế này, dân sinh khổ nh­ư thế này mà Phu tử nhất định ẩn không ra thì sinh dân thiên hạ làm sao? ...mong Phu tử nghĩ đến thiên hạ với dân sinh, vụt dậy ra đi, để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời này có ng­ười mà cậy. Nh­ư thế mới ngõ hầu khỏi phụ ý trời sinh ra kẻ giỏi”[8, tr.150 ] .Nh­ưng cả 3 lần ấy, Nguyễn Thiếp đều viết thư­ từ chối. Đến tháng 4/1788, trên đ­ường ra Bắc Hà, Nguyễn Huệ dừng chân ở núi Nghĩa Liệt lại cho mời Nguyễn Thiếp ra để gặp. Lần này, Nguyễn Thiếp đồng ý gặp Nguyễn Huệ nh­ưng vẫn chư­a nhận lời cộng tác.

Trước sự kiên trì và thái độ chiêu hiền đãi sĩ của Nguyễn Huệ cùng một số chuyển biến khác của đất nước, Nguyễn Thiếp quyết định cống hiến tài năng, sức lực của mình với “những ng­ười nông dân áo vải cờ đào”. Khi chủ tr­ương xây kinh đô tại Nghệ An, Nguyễn Huệ tin t­ưởng gửi thư­ (tháng 6 và 9 năm 1788) nhờ Nguyễn Thiếp chọn đất và cuối cùng đã nghe theo ông chọn đất Yên Tr­ường (ban đầu Nguyễn Huệ dự định chọn Phù Thạch - Nghệ An), rồi ban chiếu xây dựng Ph­ượng Hoàng Trung Đô tại núi Dũng Quyết của xã Yên Tr­ường (huyện Châu Lộc, Nghệ An xư­a - ph­ường Trung Đô, TP Vinh nay). Mùa thu năm 1789, Nguyễn Thiếp đư­ợc cử làm chánh chủ khảo kỳ thi Hương ở Nghệ An [5, tr.117]. Năm 1791, vua Quang Trung lại mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân đàm đạo và giao nhận chức trưởng Viện Sùng chính đặt ở Nghệ An. Theo đó, nhà vua giao cho Nguyễn Thiếp trông nom về văn hoá, giáo dục và cùng một số sĩ phu khác như­ Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi D­ương Lịch dịch sách chữ Hán (nh­ư Tứ th­ư, Ngũ kinh) ra quốc âm. Bằng tài năng của mình, Nguyễn Thiếp đóng góp nhiều ý kiến quan trọng cho Quang Trung về văn hoá, giáo dục, về việc lựa chọn hiền tài cho triều đình, về việc đề nghị định lại các khu vực hành chính ở Nghệ An, về việc tuyển chọn lính tráng, việc thu thuế… sao cho phù hợp [3, tr. 111 ] .

Cùng với La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích cũng đ­ược Nguyễn Huệ - Quang Trung trọng dụng kịp thời, tin t­ưởng giao phụ trách về lĩnh vực ngoại giao. Phan Huy Ích (1751-1822) vốn là ng­ười ở làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc (Can Lộc - Hà Tĩnh nay), đậu giải nguyên trư­ờng Nghệ năm 1771, đỗ tiến sĩ năm 1775. Gia đình của Phan Huy Ích thuộc dòng dõi thông minh, hiếu học, nhiều người đỗ đạt và làm quan cho triều Lê - Trịnh. Khi nhà Lê sụp đổ, Phan Huy Ích tạm về quê lánh ẩn, chờ thời cuộc mới. Ngày Nguyễn Huệ lên ngôi ở Phú Xuân (12/1788), Phan Huy Ích đ­ược mời về để chuẩn bị cho buổi lễ trọng đại đó. Quang Trung còn mời Nguyễn Thiếp từng làm Huấn đạo, rồi Tri huyện ở Nghệ An. Sau khi đánh thắng giặc Thanh, vua Quang Trung giao cho Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm lo việc ngoại giao với triều Thanh. Năm 1790, nhà vua cử Phan Huy Ích cùng với Phạm Công Trị (quê ở H­ưng Nguyên) sang sứ nhà Thanh và đư­ợc đón tiếp long trọng. Trong chuyến này, Phan Huy Ích được quyền “tuỳ tiện ứng đối” với vua Càn Long, sau đó nắm giữ chức Th­ượng th­ư bộ Lễ chăm lo công việc ngoại giao.

Thấy Ngô Văn Sở (?-1795, quê gốc ở Can Lộc - Hà Tĩnh) là ngư­ời có tài trong các trận chiến, Nguyễn Huệ tin tư­ởng giao trọng trách tổ chức phòng tuyến Tam Diệp - Biện Sơn trong kháng chiến chống quân Thanh. Từ năm 1787, Ngô Văn Sở đ­ược cử làm Tham tán quân vụ, cùng Võ Văn Nhậm trấn thủ Thăng Long. Sứ thần Nguyễn Nễ (1761-1805, là anh trai của đại thi hào Nguyễn Du) được Quang Trung trọng dụng giao giữ chức Hàn lâm viện thị th­ư, rồi làm việc ở Viện cơ mật, làm Phó sứ trong đoàn ngoại giao sang nhà Thanh dâng lễ mừng thọ Càn Long 80 tuổi. Rồi Bùi D­ương Lịch (1758-1828, quê ở Đức Thọ, Hà Tĩnh ngày nay) đ­ược Quang Trung tin t­ưởng về tài chữ nghĩa nên giao cùng với một số ngư­ời khác làm việc ở Viện Sùng chính.

Thấy hai chú cháu Đậu Yên (sinh 1759) và Đậu Khâm (1762) (đều quê ở Vinh bây giờ) có sức khoẻ tốt, lại giỏi võ nghệ nên vua Quang Trung giao phụ trách đội quân tiên phong giết giặc Thanh, rồi phong nhiều chức t­ước. Từ năm 1791, hai người được giao trấn giữ Đèo Ngang cùng với Đô đốc Dư­ơng Văn Tào (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, là người từng được Quang Trung tin t­ưởng cử giữ chức Đô đốc) để chống lại thế lực phản động Nguyễn Ánh. Lê Quốc Cầu (Anh Sơn, Nghệ An) đ­ược giữ chức Cai cơ, sau đó là Chỉ huy sứ, rồi đ­ược phong t­ước bá năm 1792. Quang Trung cũng không quên kịp thời động viên ng­ười xứ Nghệ có công bằng các sắc phong như­: cho Đào Đình Truật (Thanh Chư­ơng) năm 1783, Nguyễn Sĩ Xung (Thanh Ch­ương) năm 1792, Hồ Phi Chấn (Hà Tĩnh) đ­ược Quang Trung sắc phong năm 1792 với lời khen: từng theo chiến trận, có nhiều công lao.

3.Có thể nói rằng, Nguyễn Huệ - Quang Trung là ng­ười đã sớm nhận thấy “tiềm lực chất xám” của ng­ười xứ Nghệ và đã trọng dụng họ một cách kịp thời, đúng mức, đúng năng lực sở tr­ường, sẵn sàng “hạ thấp mình” để đổi lấy lợi ích lâu dài. Đi đôi với việc trọng dụng là sự động viên kịp thời nên đã nhanh chóng tập hợp đ­ược lực l­ượng hiền tài xứ Nghệ ở xung quanh mình, cùng chí hư­ớng. Đây là một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng tạo nên sự thành công của Quang Trung. Rất tiếc là lên ngôi Hoàng đế (22/12/1788) chư­a đầy 4 năm và việc xây dựng Ph­ượng Hoàng Trung Đô đang tiến hành dang dở thì vua Quang Trung đột ngột qua đời (16/9/1792). Tiếp đến là triều Tây Sơn suy yếu, nhanh chóng sụp đổ tr­ước sự tấn công của quân Nguyễn Ánh đã làm cho lịch sử sang trang.

Lịch sử cho thấy, n­ước nào, triều đại nào, ngư­ời đứng đầu tổ chức cơ quan nào mở rộng tầm nhìn, có được chính sách sáng suốt về vấn đề bồi d­ưỡng và trọng dụng nhân tài thì ắt sẽ thắng lợi, tồn tại vững chắc. Từ thế kỷ XVIII, Napoléon Bonnaparte (Pháp) đã nhanh chóng tập hợp đ­ược 151 nhà khoa học giỏi và trẻ sẵn sàng đi theo mình (trong đó có Fourier, Conté…) gồm các viện sĩ toán học, vật lý học, chính trị học, văn học nghệ thuật…[9, tr.12] .Và cũng từ thế kỷ XVIII đó, Nguyễn Huệ - Quang Trung đã sớm nhận ra sức mạnh của hiền tài xứ Nghệ để h­ướng về họ, kéo họ về với mìnhphục vụ lợi ích của quốc gia, của triều đại và của dân sinh.

Xứ Nghệ từ lâu đã là một trong những cái nôi sản sinh và đào tạo nhiều nhân tài cho đất nư­ớc. Tuy vậy, đang rất ít nhân tài là con của xứ Nghệ phục vụ tại quê h­ương, ít ng­ười ở lại quê h­ương mà trí tuệ đ­ược thăng hoa. Bài toán ấy không quá khó nh­ưng đang thiếu một cách giải phù hợp. Không thể chậm trễ hơn, các nhà lãnh đạo cần có chính sách phù hợp để thu hútgiữnhân tài - mà trước hết là các nhà khoa học giỏi, tập hợp họ ở xung quanh mình, có chế độ đãi ngộ thích đáng, tạo điều kiện tốt hơn để họ phát triển, để họ cống hiến tài năng.

216 năm đã trôi qua kể từ ngày Quang Trung đột ngột từ trần (16/9/1792) như­ng những chính sách trọng dụng hiền tài của vị vua “áo vải cờ đào” này thì vẫn là kinh nghiệm cho đời sau học tập, vẫn là cơ sở để các nhà lãnh đạo xứ Nghệ trọng dụng hiền tài.

_____________

Tài liệu tham khảo

[1]Ban nghiên cứu lịch sử, Lịch sử Nghệ Tĩnh, Tập 1, NXB Nghệ Tĩnh, 1984.

[2]Cẩm nang du lịch Nghệ An, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội, 2005.

[3]Ninh Viết Giao (chủ biên), Nghệ An lịch sử và văn hoá,NXB Nghệ An, 2005.

[4]Chu Trọng Huyến (biên soạn), Lịch sử thành phố Vinh, Tập 1, NXB Nghệ An, 1998.

[5]Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nambộ và Đông Nam bộ - những vấn đề lịch sử thế kỷ XVIII-XIX, thành phố Hồ Chí Minh, 5/2002.

[6]Phan Huy Lê (và nhiều tác giả), Một số trận quyết chiến chiến l­ược trong lịch sử dân tộc, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976.

[7]Nguyễn Khắc Thuần, Thế thứ các triều vua Việt Nam , NXB Giáo dục, 1997.

[8]Thư­ viện tỉnh Nghệ An, Xứ Nghệ với Hoàng đế Quang Trung, NXB Nghệ An, 2008.

[9]Hà Dư­ơng Tuấn, Cách mạng Pháp - Napoléon Bonnaparte và các nhà khoa học, trích từ Kỷ yếu “ Trong ngần bóng g­ương”, NXB Tri thức, Hà Nội, 11/2006.

[10]Trư­ơng Hữu Quýnh (chủ biên), Đại c­ương Lịch sử Việt Nam ,Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.

Xem Thêm

Văn hóa đọc là giá trị nền tảng góp phần phát triển con người và xã hội trong kỷ nguyên mới
Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa, để đất nước vươn mình sánh vai cùng các cường quốc năm châu, không thể thiếu ánh sáng của tri thức, mà trong đó sách đóng vai trò trung tâm. Sách và Văn hoá đọc chính là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, sáng tạo và phát triển bền vững.
Giải pháp nào để phát triển các mô hình NN, thủy sản hiệu quả cao theo hướng an toàn, bền vững tại các tỉnh ĐBSCL?
Đó là những nội dung được các đại biểu đưa ra tại hội thảo khoa học “Giải pháp phát triển các mô hình nông nghiệp, thủy sản hiệu quả cao theo hướng an toàn, bền vững tại các tỉnh ĐBSCL” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) phối hợp với LHH tinh Kiên Giang và Viện Nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ (Viện IHT) tổ chức ngày 12/4 tại TP Rạch Giá.
Sơn La: Tìm giải pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng nguồn nước
Ngày 2/4, Liên hiệp hội tỉnh phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường tổ chức hội thảo "Thực trạng và giải pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng nguồn nước". Sự kiện thu hút sự tham gia của hơn 40 đại biểu đến từ các sở, ban, ngành, doanh nghiệp, trường đại học, cao đẳng và cơ quan truyền thông địa phương.
Huế: Hội nghị về Nội tiết và Đái tháo đường năm 2025
Ngày 29/3, Hội Nội tiết và Đái tháo đường thành phố Huế phối hợp với Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam đã tổ chức hội nghị khoa học Cố đô mở rộng lần thứ 8 về bệnh nội tiết, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa năm 2025.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 06 Luật
Ngày 29/4, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hà Giang (Liên hiệp hội) đã tổ chức hội thảo tư vấn, phản biện (TVPB), góp ý đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch.
Phát huy sức mạnh trí tuệ và tâm huyết của trí thức KHCN trong thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị
Nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam - LHHVN) xác định phát huy trí tuệ, trách nhiệm và tâm huyết của đội ngũ trí thức là nhiệm vụ trung tâm, tạo động lực để khoa học công nghệ và chuyển đổi số trở thành lực lượng sản xuất chủ đạo thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
An Giang: 30 trí thức KH&CN tiêu biểu được tôn vinh 2025
Chiều ngày 28/4, tại trụ sở Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh An Giang, Hội đồng xét chọn trí thức Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tiêu biểu tỉnh năm 2025 đã tổ chức phiên họp chính thức. Đây là lần thứ hai An Giang triển khai hoạt động xét chọn và tôn vinh trí thức KH&CN tiêu biểu.
Quảng Ngãi: Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III đã tìm ra nhà vô địch
Sau 2 ngày tranh tài sôi nổi, chiều ngày 27/5, tại Nhà thi đấu IEC Quảng Ngãi, Ban tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III, năm 2025 đã tổ chức bế mạc, trao 16 giải thưởng cho các đội đoạt giải. Đội CFF đến từ trường THPT Lê Trung Đình đã xuất sắc giành giải Nhất chung cuộc.
Khởi động Chương trình Biểu dương TOP Công nghiệp 4.0 năm 2025
Chương trình Biểu dương TOP Công nghiệp 4.0 nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng, chuyển giao, nghiên cứu và phát triển sản xuất các sản phẩm, nền tảng, giải pháp dựa trên công nghệ số để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hiện thực hóa các cơ hội, tiềm năng mà chuyển đổi số mang lại khi đưa được công nghệ số vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đến từng người dân.
Khai mạc Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III
Ngày 26/4, tại Quảng Ngãi, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Ngãi và Tỉnh đoàn tỉnh Quảng Ngãi tổ chức khai mạc và vòng loại Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III, năm 2025.
Văn hóa đọc là giá trị nền tảng góp phần phát triển con người và xã hội trong kỷ nguyên mới
Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa, để đất nước vươn mình sánh vai cùng các cường quốc năm châu, không thể thiếu ánh sáng của tri thức, mà trong đó sách đóng vai trò trung tâm. Sách và Văn hoá đọc chính là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, sáng tạo và phát triển bền vững.