Người Thái Bình với nghệ thuật chèo
1. Đặc trưng đất và người Thái Bình
Đặc trưng dễ thấy nhất ở Thái Bình là làng nhiều họ. Qua khảo sát ở các làng thuộc huyện Tiền Hải chúng tôi được biết số làng có dưới 10 họ chỉ chiếm khoảng 25%; số làng có từ 10 đến 15 họ chiếm khoảng 40%; số làng có từ 16 họ trở lên chiếm khoảng 35%. Đặc trưng làng nhiều họ, từ nhiều nguồn tới đã chi phối tính đa dạng trong sự thống nhất về văn hóa dân gian của Thái Bình.
Một đặc trưng đáng chú ý là người Việt (Kinh) chiếm tỷ lệ tuyệt đối. Vốn là sự hội tụ cư dân tứ xứ, nhưng chỉ thuần nhất có người Việt trên một vùng đất nông nghiệp thuần túy, nên các sắc thái văn hóa dân gian vừa phong phú vừa có điều kiện để bảo lưu.
Một trong những đặc trưng được xem là nổi bật nhất về Thái Bình là đất chật người đông. Theo số liệu điều tra dân số năm 1989 thì mật độ dân số Thái Bình chỉ đứng sau Hà Nội và TP.HCM: mật độ dân số bình quân cả nước là 192người/km2 thì Thái Bình là 1092người/km2. Vào thời điểm năm 1931 khi mật độ dân số bình quân ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng là 430người/km2 thì Thái Bình là 593người/km2.
Về đời sống tâm linh và tín ngưỡng tôn giáo của cư dân Thái Bình, có lẽ ngoài những đặc trưng chung, cần chú ý đến những nét riêng, đó là, Thái Bình cơ bản chỉ có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Đạo Tin Lành tập trung chủ yếu ở thôn Khả Cảnh xã Hồng Tiến huyện Kiến Xương, tuy xuất hiện tương đối sớm nhưng phát triển chậm, đến thời điểm đầu năm 1997 cũng chỉ có một nhà thờ và khoảng hơn 200 tín đồ.
Về tín ngưỡng dân gian, ở Thái Bình phổ biến nhất là tín ngưỡng thờ thành hoàng làng gắn với hội làng. Thế giới thành hoàng làng ở Thái Bình vô cùng phong phú. Nổi bật là tục thờ tổ nghề trong các làng như tục thờ bà Chúa Muối (Quang Lang, Thái Thụy), thờ tổ nghề dệt chiếu (Hải Triều - Hưng Hà) thờ tổ nghề Trạm bạc (Đồng Sâm - Kiến Xương...). Ở Thái Bình vốn đã duy trì các hình thức tín ngưỡng, các sự lệ phong phú từ trò diễn ông Đùng bà Đà mang tính phồn thực sơ khai, đến Múa bệt, Đuổi hổ, Rước nước, Cầu ngư... Có thể xem đó là sự hội tụ các hình thức tín ngưỡng mang sắc thái văn minh nông nghiệp trên đất Thái Bình.
Lễ hội truyền thống ở Thái Bình (trong đó nổi bật là chèo sân đình) là bảo tàng sống phản ánh khá toàn diện tính cách và sắc thái văn hóa của cư dân Thái Bình truyền thống và hiện tại.
2. Chèo đến sớm, ở lâu với Thái Bình
Coi trọng đàn ca hát xướng: Lễ hội truyền thống là nơi lưu giữ, chuyển tải các giá trị văn hóa nghệ thuật. Hơn 200 lễ hội làng ở Thái Bình, trong đó có những hội còn lưu giữ những lễ thức sơ khai nguyên thủy, đã tạo những yếu tố nghệ thuật cho nghệ thuật chèo phôi thai. Với hội làng, chiếu chèo sân đình là hình thức không thể thiếu vắng.
Thái Bình là một trong những chiếc nôi của nghệ thuật chèo. Đây là ghi nhận không chỉ của các nhà nghiên cứu, những người làm chèo mà còn cả khán giả yêu thích chèo cả nước.
Trên vùng đất thuộc Thái Bình xưa, nay đã có ba trong bảy Vị tổ nghề của nghệ thuật biểu diễn, đã từng sinh sống và làm nghề, đó là Đào Văn Só, Đặng Hồng Lân và bà Đào Nương. Hai ông Đào Văn Só, Đặng Hồng Lân được những người làm nghệ thuật tôn thờ, ngày mất của hai ông (12-8) thành ngày giỗ tổ nghề. Bà Đào Nương được thờ làm Thành hoàng làng Hoàng Quan (nay là Hoàng Xa, xã Đông Phương, huyện Đông Hưng), được thờ ở đền Bách Thần, dân gian gọi là Bách linh từ ở huyện lỵ Đông Quan xưa. Bà Đào Nương được các Triều Lê - Nguyễn phong là Thượng đẳng thần rồi Thượng thượng đẳng thần; sắc phong thời vua Lê Cảnh Hưng (1740-1785) ghi rõ bà là một người con gái đẹp, đàn giỏi hát hay: Cầm Bà Thi Nữ.
Ở Thái Bình còn hai nơi thờ nghệ nhân hát ca trù, dân gian quen gọi là hát ả đào, một ở làng Me (làng Trực Mai, xã Tân Hòa), một ở làng Tráp (làng Gia Lạp, xã Văn Cẩm) đều thuộc huyện Hưng Hà. Một bà được phong Chuôm Me đại vương một bà được phong Sơn Dương nữ chúa tôn thần. Dân gian quen gọi bà là Bà Ả (ả đào).
Những chứng tích trên chứng minh truyền thống “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của người Thái Bình, họ không coi những người đàn hát là “xướng ca vô loài” mà là thần, là tiên, khi những người này đã tử vì nghệ. Bà Đào Nương hát xong đi xuống giếng... rồi biến mất, khi người dân đến, chỉ còn dòng chữ của Bà để lại:
Vũ mao biến hóa nguyệt trung thiên
Phảng phất nghê đình phi ngọc điện.
(người con gái đẹp, người ca nhi đã về chốn cung trăng, lời ca tiếng nhạc chỉ còn thấy ở nơi thờ cúng).
Hai ông Đào Văn Só, Đăng Hồng Lân bị chết đuối trong một lần đi biểu diễn. Chuôm Me đại vương đi hát ở hội đền Tiên La về bị ngã xuống giếng chết, con bà Đỗ Thị Ngạn Thần tiên giáng thế lại chết đứng khi đang hát tại đền Cả của làng Tráp (2).
Thái Bình có không ít câu chuyện dân gian kể về những thần tiên của nghệ thuật và nhiều loại hình văn nghệ dân gian tiêu biểu như: múa rối nước, hát ả đào, hát chèo, hát văn, dân ca... Phải chăng vì sự tôn sùng nghệ thuật của người dân nơi đây đã đi vào tâm thức, tín ngưỡng mà hát chèo ở Thái Bình cho đến nay đã trở thành truyền thống. Khảo sát năm 2001, chúng tôi thấy không một làng xã nào ở Thái Bình lại không có người biết hát, diễn chèo, làng ít cũng có vài ba người, làng nhiều có tới hàng trăm người. Thưởng thức loại hình nghệ thuật này đã trở thành thói quen như cơm ăn, nước uống hàng ngày. Chẳng thế mà họ
Chẳng thèm ăn chả ăn nem
Thèm mo cơm nếp, thèm xem hát chèo.
Người Thái Bình không chỉ hát, diễn chèo tại quê, mà đã đem chèo ra ngoài tỉnh từ rất sớm (sau này đem chèo ra cả nước ngoài). Từ những năm đầu thế kỷ XX, các nghệ nhân chèo của Thái Bình đều nói rằng: đất này đã có 3 làng chèo nổi tiếng, đó là các làng Hà Xá (Hưng Hà), Sáo Đền (Vũ Thư), Khuốc (Đông Hưng). Chèo Hà là cả vùng phía tây bắc huyện Hưng Hà, chèo Khuốc là các làng chèo của huyện Tiên Hưng xưa và Sáo Đền là các làng chèo của Thư Trì - Vũ Tiên... Ngoài ra, cũng phải kể đến một số làng mà ở đó cũng có những gánh chèo từng đi lưu diễn ngoài phạm vi làng mình như: làng Hoàng Quan (Đông Phương) làng Hoàng Từ (Đông Cường) làng Nguyễn (Nguyên Xá), làng Lễ Cũ (Thụy Duyên).
Gánh, phường, hội chèo ở Thái Bình: Các phường, gánh, hội chèo (tuồng) Thái Bình thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 trở về trước, phần lớn hình thành và phát triển từ yêu cầu thưởng thức nghệ thuật của cộng đồng dân xã trong hội làng. Chèo lại thường tập trung hội tụ vào dịp có lễ hội lớn, có lịch sử lâu đời, phụ thuộc vào quyền linh vị thần thánh thờ tại đền, đình làng nơi đó, ảnh hưởng lớn nhỏ đến dân trong vùng, trong tỉnh. Chẳng thế mà “xung quanh làng Khuốc không thể thiếu chèo, gánh Khuốc lớn, Khuốc con đi diễn cả tháng, trước hội và sau hội. ở làng Khuốc chèo ảnh hưởng tâm thức dân làng, quan tước đến mức: ai làm quan có chức sắc đến mấy, nếu trong nhà không có gánh hát thì vẫn chưa sang”(1). Làng Sáo Đền, vào dịp có hội, thường mời các gánh hát khắp nơi về hát thi trổ tài, ban giám khảo là những người có uy trong làng và các nghệ nhân giỏi của các gánh hát bầu ra, sau đó gánh nào diễn hay, đặc biệt có nhiều nghệ nhân chèo được mệnh danh là “tứ chiếng”, sẽ được làng trao tặng tiền và lụa.
Về vấn đề chèo đến sớm, ở lâu với Thái Bình, cần bàn về phường, gánh, hội, ban...
Phường: Sử chép từ đời Lý (thế kỷ XI) qua các triều đại sau, đến đời Nguyễn, dùng để chỉ đơn vị dưới xã, làng, tương đương với ấp, thôn. Phường cũng chỉ nhóm người cùng nghề, tập hợp lại giúp đỡ nhau làm ăn có hiệu quả. Với các đơn vị làm nghệ thuật, phường còn chỉ một phương thức làm ăn, là tiền hát đám (thuê đêm, khoán vở) thu về, trừ mọi chi phí, để lại chút đỉnh làm quỹ dự phòng, còn lại đem chia cho mọi người, theo mức nghề, phần chia đó do tập thể bàn bạc thông qua. Phường chỉ đi hát thời gian nông nhàn và vẫn sống chủ yếu bằng nông nghiệp hay nghề thủ công khác.
Gánh: Cũng ở dạng tổ chức phường - hội ăn chia kinh phí theo mức đều, cũng có chia theo mức nghề, nhưng chênh nhau không đáng kể, song họ đã lấy tiền hát làm nguồn thu quan trọng, mặc dù vẫn trên cơ sở “canh nông vi bản”. Và còn có nghĩa đen chỉ việc gánh đôi bồ, đôi hòm đựng quần áo, đồ nghề trên đường lưu diễn.
Thời trước, chính quyền Pháp quy định bắt các phường, gánh phải đăng ký tên tuổi từng người mới cho lập hội. Do đó, hội chèo cũng có khi là phường này, gánh nọ; khác chăng, có phường do vị “tai mắt” giàu sang thế lực, nuôi ăn để tập và hát trong nhà như cụ Thương (Cao Kim Trác) ở Khuốc, có khi vị giàu sang chỉ nuôi ăn tập và hát cho những lần ông ta yêu cầu; còn khi những anh chị em đi hát đám ngoài, thì gánh phải chịu hạch toán thu - chi kiểu phường, hội. Nói đến phường - hội - gánh để thấy rằng tổ chức của những người đi hát đã có bước tiến dần và bắt đầu đi vào nề nếp. Thực tế, cả mấy loại gánh trên vẫn hoạt động làm ăn theo kiểu “gia đình”, “tài tử”. Gánh tuy có nhiều tiền hát lưu diễn, song vẫn sống bằng nghề nông nghiệp là chủ yếu.
Ban: Chỉ nhóm người nghề do tài tử thuê mướn trả lương, hát quanh năm trên sân khấu cố định ở nơi thành thị thời kỳ Pháp thuộc, nhưng cũng có khi rạp vắng khách lại đi diễn lưu động. Nhưng đi diễn đã theo kỳ hạn từng tuần, từng tháng, lấy đó làm nguồn sống chính. Họ đã thoát ly khỏi đồng ruộng, (không chút nào dính dáng đến mùa vụ nông nghiệp) như Ban hát chèo của Sán Nhiên Đài ở Hà Nội.
Ở Thái Bình, thời kỳ này đã sớm có rạp Bát Tiếp. Rạp này được tu tạo dần và qua tay nhiều chủ, dần trở thành rạp Tập Thiện, song chủ yếu cho thuê làm nơi hội họp, hoặc cho ban, gánh hát bên ngoài thuê diễn tạm ít ngày, như gánh ông Cả Tổng (trú ngụ tại Thị xã), gọi là gánh, nhưng cung cách làm ăn lộ rõ quan hệ chủ với người hát thuê. Rạp này còn được Ban hát của ông Xã Khúc bên Nam Định sang thuê dài hạn. Nhưng ban hát này do tính chất gia đình chi phối, vẫn mang đậm chất phường hội. Ngoài ra, còn gánh ông Tổng Tố, Tổng Tấn, Cụ Thương cũng đi hát khắp nơi và hát ở rạp Tập Thiện, nhưng cung cách làm ăn và đối xử kiểu nhà nghề, chứ không mang tính kinh doanh như các gánh kể trên.
Như vậy, những tên phường, gánh hay hội, ban kể trên chỉ mang nghĩa tương đối, vì trừ số rất ít nghệ nhân tài năng đi xa hát thuê cho chủ thời gian dài như cố lão nghệ sĩ Năm Ngũ, thời gian ngắn như các ông ba Đối, ông Điền, ông Trạch, bà Na trong gánh chèo Khuốc, thì hầu hết tổ chức phường, gánh, hội chèo ở Thái Bình (trước Cách mạng tháng Tám) vẫn hát trên chiếu trải ngoài trời: sân đình, bãi chợ; với ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng đèn dầu, cây đuốc, cây nến vào thời gian lễ hội nông nhàn.
Theo Trần Việt Ngữ, nếu kể số phường, gánh, hội chèo mang rõ tên ông trùm, từng hoạt động và sinh sống trên địa bàn Thái Bình thì “cả tỉnh có 46 đơn vị, phân theo huyện ngày nay là: Vũ Thư 13; Đông Hưng 9; Hưng Hà 8; Thị xã 4; Kiến Xương 6; Thái Thụy 4; Quỳnh Phụ 2. Song nếu chỉ tính số, phường, gánh, hội chèo còn đang hoạt động biểu diễn khoảng những năm 1932 đến 1944, thì con số là 25, trong đó: Vũ Thư 6; Đông Hưng 5; Hưng Hà 4; Kiến Xương 4; Thị xã 2; Thái Thụy 2; Quỳnh Phụ 2.
Nhiều nghệ nhân cho rằng: Đơn vị được xem là lớn, mạnh thì những phường, gánh đó có khoảng từ 13 đến 18 người, thường phải đảm nhiệm hát cả tuồng và chèo. Sở dĩ phải hát cả tuồng và chèo là vì: nhu cầu khán giả lúc bấy giờ thích xem tuồng nhiều hơn là xem chèo, cho nên, các phường hát được dân gian gọi là phường hát tuồng - chèo, hay gánh hát tuồng - chèo. Những gánh, phường này, thường trấn giữ hội làng nhà, tùy điều kiện mà lan toả, ảnh hưởng đậm nhạt các hội làng lân cận. Lễ hội càng lớn (về ý nghĩa lịch sử, quy mô tổ chức) thì càng thúc đẩy, tạo thêm điều kiện cho gánh, phường phát triển lâu dài.
Các gánh, phường tuồng chèo ở Thái Bình có nhiều nghệ nhân tài năng mà hôm nay chúng ta được chứng kiến, đó là: Vũ Thư, Đông Hưng, Hưng Hà, (Sáo Đền, Khuốc, Hà Xá). Song qua thực tế thì thấy Thị xã có ồ Mề, Bo, Vũ Chính; Kiến Xương có Thanh Lê, Thanh Tân, Đồng Xâm; Thái Thụy có Thụy Hồng, Thụy Hà, Thụy Phong, Thái Phúc; Quỳnh Phụ có An Lễ, Vũ Hạ, Quỳnh Hải. Nhưng hoạt động toàn diện và đóng góp làm nổi danh cho chèo Thái Bình là 3 làng Sáo Đền, Hà Xá và Khuốc.
Rõ ràng phần lớn các gánh, phường tuồng chèo ở Thái Bình trước Cách mạng tháng Tám đã hình thành, chuyển hóa, phát triển từ nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của quần chúng trong các lễ hội làng, xã. Đồng thời, các gánh hát đều gắn bó với lễ hội lớn có lịch sử lâu dài trong vùng. Xưa kia người ta chỉ hát, diễn tuồng chèo vào những ngày tháng nông nhàn, hoặc những ngày hội của làng, rất ít có những hội, gánh hát chèo ra khỏi làng, khỏi xã và họ chỉ hát sau mùa vụ đã xong do vẫn phải lấy nghề làm ruộng làm nguồn sống. Chính vì lễ hội ở Thái Bình khá đậm đặc cho nên, nghệ thuật chèo phôi thai, hội tụ, và có được môi trường tốt để phát triển. Chẳng thế mà chính từ lễ hội ở các làng quê đã nuôi dưỡng cho Thái Bình xưa và nay đâu đâu cũng có người biết đàn, biết hát và thưởng thức chèo. Và cũng nhờ thế mà Thái Bình đã từ lâu có nguồn nhân lực dồi dào về nghệ thuật chèo, đủ sức cung cấp cho làng chèo cả nước.
Những năm đầu thế kỷ XX, Thái Bình đã xuất hiện chí sĩ, nghệ sĩ, tác giả Nguyễn Thúc Khiêm, sinh tại làng Hoàng Rồng, xã Điệp Nông, Hưng Hà. Sự nghiệp sáng tác của ông rất đồ sộ, để lại 14 kịch bản tuồng, 8 ca khúc chèo, 6 truyện, 2 khảo cứu chèo, tuồng... Lê Thanh Hiền trong tác phẩm Chí sĩ - nghệ sĩ Nguyễn Thúc Khiêm đã viết: Nguyễn Thúc Khiêm như một dấu chấm son trong văn sách cổ”, “đọc những kịch bản chèo và ca khúc chèo mà Nguyễn Thúc Khiêm sáng tác... ta lại thấy vọng về lời mẹ hát ru ta từ thuở ấu thơ, lại thấy chập chờn những cánh cò trắng mỏng manh vỗ nhịp bay vào bầu trời êm ả...”. Ông chính là người luôn đóng vai trò nhắc vở giúp cho cố NSND Nguyễn Đình Nghị suốt một thời gian dài. Có thể nói vai trò của người nhắc vở là vô cùng quan trọng. Chèo xưa chỉ có thân trò, tùy nơi, tùy lúc, tùy hoàn cảnh... mà các nghệ nhân khi biểu diễn phải ứng tác cho thân trò không gầy guộc. Người nhắc vở phải là nhà nghệ thuật, đồng thời là nhà sáng tác ứng biến tại chỗ, khi có tình huống thực tiễn xảy ra. Ví dụ khi trò diễn đã hết, nhưng khán giả muốn xem tiếp, thì trò diễn tất yếu phải kéo dài thêm. Hoặc tuy trò còn, nhưng hoàn cảnh, tình thế cần phải kéo rộng dài trò hơn thì cũng tương tự như trên, người nhắc vở và diễn viên phải đồng sáng tạo sao cho hợp cảnh. Hay cũng có đôi khi diễn viên quên lời, thì người nhắc vở sẽ giúp họ nhớ lại, bằng cách, phải đứng ở cánh gà theo dõi từ tổng thể đến chi tiết nội dung nghệ thuật biểu diễn mà nhắc lời hoặc ứng tác (bịa) giúp họ “lấp khoảng trống” một cách hợp lý.
Từ sau ngày miền Bắc giải phóng (1955) Đảng và Nhà nước ta có điều kiện để chăm lo đến việc xây dựng phát triển văn hóa, trong đó có nghệ thuật chèo. Trường Sân khấu nghệ thuật Việt Nam , Nhà hát Chèo Trung ương được thành lập. Các nghệ nhân chèo Thái Bình được mời lên giảng dạy, truyền nghề, được tuyển vào làm nhạc công, diễn viên..., trở thành những viên gạch đầu tiên xây dựng Nhà hát. Hiện nay Nhà hát chèo Trung ương vẫn còn lưu giữ chân dung và ghi công 25 nghệ nhân chèo Thái Bình. Sau này có những nghệ nhân đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý như: NSND Năm Ngũ, NSND Nguyễn Mầm. Năm 1976 các nghệ nhân chèo Thái Bình lại được mời lên Trung ương để khai thác góp phần vào kho tư liệu chèo của cả nước thêm phong phú, góp phần không nhỏ vào công tác nghiên cứu bảo tồn và phát triển nghệ thuật chèo của dân tộc. Từ đây, có người đã trở thành nhà nghiên cứu, thành giáo sư, thành tác giả, đạo diễn, diễn viên sân khấu chèo... tiếp tục góp phần bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật quý giá, di sản văn hóa nghệ thuật của dân tộc.
_______________
1. Tác giả Hà Quang Tiết ghi chép lời các nghệ nhân Hà Quang Bổng, Hà Quang Xuyên, Cao Kim Trạch, Đào Thị Na, Phạm Văn Điền kể lại.