NGND Lê Mậu Hãn, một nhà sử học trên trận địa tư tưởng
Ở nơi sơ tán, mặc dù bận rộn với công tác, với công việc nghiên cứu giảng dạy, được sống với đám học trò tươi trẻ miệt mài học tập, nhưng trong trái tim thầy vẫn không nguôi nỗi nhớ người vợ trẻ ở phíaNamvĩ tuyến 17. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước hoà bình, độc lập, thống nhất, ra sức khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế và văn hóa; náo nức bước vào thời kỳ cách mạng XHCN.
Cùng năm ấy, Thầy được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm khoa Lịch sử và đảm nhiệm một mảng chuyên môn quan trọng là làm sáng tỏ những vấn đề có tính chiến lược trong Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, trong các cương lĩnh chính trị, trong đường lối quân sự, ngoại giao và trong vấn đề xây dựng Đảng. Trong bút pháp của Thầy có cả tính Đảng, tính khoa học, đặc biệt có tính chiến đấu rất cao. Nếu
Có được kết quả ấy là do sự lựa chọn có tính chuẩn mực con đường phát triển dân tộc đầu năm 1930 mà trước hết và căn bản là nhờ Nguyễn Ái Quốc “Đã áp dụng một cách tài tình chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác và Lênin trên cơ sở triết lý lịch sử phương Đông và tư tưởng nhân văn truyền thống” kết hợp với những điều kiện kinh tế, chính trị của Việt Nam.
GS Lê Mậu Hãn và phu nhân |
Thầy thường nói với chúng tôi chuyện khen chê trong cuộc sống và suy rộng ra trong lịch sử cũng là chuyện bình thường, với khen chê nhà nghiên cứu có thể góp phần làm cho mọi vấn đề trở nên rõ ràng hơn. Nhưng điều quan trọng là qua khen chê để rút ra những kinh nghiệm, hoàn chỉnh thêm nhận thức cho con người, cho một tổ chức mà cao hơn là cho đường lối chính sách của Đảng và của Nhà nước ta. Nghiên cứu một thiếu sót của Đảng, một tổ chức, một đoàn thể, đối với người làm Sử không phải để bêu diếu xã hội như những kẻ thù của nhân dân thường sử dụng để tiến công nhằm thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng. Người làm Sử cũng như các bác sĩ phẫu thuật cầm dao mổ phải biết rạch đúng chỗ, phải biết loại bỏ những gì không thích hợp đối với cơ thể con người và phải biết khâu vá để hồi sức nhanh và phát triển tốt. Trong lịch sử, có thời kỳ vì quá say mê tuyên truyền, chúng ra đã phủ sóng, che lấp cả những thiếu sót. Nếu cứ làm như vậy, không sớm thì muộn, sẽ bị các thế lực thù địch lợi dụng phản kích, làm cho quần chúng mất dần lòng tin ở Đảng, gây nguy hại và từng bước làm suy yếu Đảng. Nói thẳng, nói thật, xưa nay đã có trong nguyên tắc tập trung dân chủ, trong việc tự phê bình và phê bình, trong bản chất của Đảng; nguyên tắc đó đã được khẳng định lại một lần nữa trong đường lối đổi mới của Đảng như là một điều kiện để tồn taịi và hoàn thành sự nghiệp vĩ đại của mình. Có lẽ xuất phát từ đó mà Thầy nhắc nhở chúng tôi không được “ngụy tạo” trong khoa học, đặc biệt là khoa học Lịch sử Đảng, cần phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều khi cầm bút…
Đối với cán bộ trẻ, Thầy thường nhắc nhở, trao đổi về con đường danh nghiệp, xây dựng nên tâm lý tự lập cho từng người, điều đó như một sự cuốn hút với sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh thuộc chuyên ngành Lịch sử Đảng, Lịch sử cận hiện đại ViệtNam.
Qua nhiều năm tham gia xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình cho môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở bậc đại học và cao đẳng, hướng dẫn khoa học, hướng dẫn và tham gia biên tập lịch sử địa phương, Thầy càng thấm thía ý nghĩa của công việc. Thầy trao đổi với chúng tôi: “Khoa học lịch sử là một trong những công cụ để nâng cao nhận thức, từ quá khứ để góp phần nhận thức hiện tại và định hướng tương lai. Việc xác định mục tiêu chiến lược, những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng, những biện pháp thực hiện nó cần phải tính đến những kinh nghiệm lịch sử - thắng lợi cũng như thất bại, sáng tạo cũng như giáo điều, rập khuôn máy móc, “tả” cũng như “hữu” trong lãnh đạo chính trị, tổ chức thực tiễn”; “Trong công tác nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội, trong công tác tư tưởng tuyên truyền có nhiều mặt liên quan tới khoa học Lịch sử Đảng cũng đang gặp phải những lúng túng mới, chưa biết vượt qua như thế nào. Tài liệu để giảng dạy đã biên soạn từ lâu, nhiều nhận định đã lạc hậu, tình trạng thiếu thống nhất còn khá phổ biến. Đó là chưa kể đến sự chi phối khá nặng nề của tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, sự yếu kém về lý luận, sự tha hóa trong xã hội do kinh tế thị trường, do đồng tiền làm cho bộ phận sinh viên trong các trường học không thích môn Lịch sử Đảng”.
Tình hình đó đòi hỏi các nhà khoa học Lịch sử Đảng phải có tâm huyết, có thái độ khoa học nghiêm túc, trung thực và dũng cảm, phải tìm hiểu và nghiên cứu với một tinh thần phê phán, có tính chiến đấu cao để nhận chân cái đúng, phê phán cái sai, tìm ra những bài học lịch sử góp phần củng cố trận địa chính trị tư tưởng.
Đã sống gần 50 năm trên đất Thủ đô, Nhà giáo nhân dân Lê Mậu Hãn như một hiện thân của sự hoà điệu giữa “phong cách Tràng An” với khí chất của người dân vùng đất Quảng miền Trung. Chúng tôi - những đồng nghiệp, học trò của Thầy đều biết rằng Thầy vẫn đang tiếp tục những công trình khoa học mới, có ý nghĩa đón đầu những biến thiên thời cuộc.
Nguồn: http://100years.vnu.edu.vn.