Nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Bình Định
Đến nay, lúa vẫn là cây trồng chủ lực của tỉnh, với diện tích trên 110.000 ha/năm, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, ổn định đời sống của người dân nông thôn. Do đó, trong giai đoạn 2006 - 2010, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu khảo nghiệm, chọn lọc các giống lúa triển vọng của Trung tâm Giống cây trồng, Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư, tiếp thu kết quả nghiên cứu của Viện KHKTNN Việt Nam, Viện KHKTNN Duyên hải Nam Trung bộ, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, Sở Nông nghiệp và PTNT thường xuyên có sự điều chỉnh cơ cấu giống lúa sản xuất trên địa bàn tỉnh, trong đó xác định bộ giống lúa chủ lực, các giống bổ sung và các giống lúa sản xuất thử. Đảm bảo các giống chủ lực là những giống chịu thâm canh, năng suất cao, phù hợp với điều kiện địa phương: ĐV 108, SH 2, ĐB 6, VĐ 8, Nhị ưu 838… Bên cạnh đó đưa vào cơ cấu các giống lúa bổ sung là các giống năng suất, chất lượng khá: BIO 404, N.ưu 69, Nghi Hương 2308, PAC 807, TH3 -3, Hương Cốm…Ngoài ra, hàng năm đều có bố trí khảo nghiệm, sản xuất hàng chục giống lúa triển vọng mới để tạo cơ sở bổ sung vào cơ cấu những năm tiếp theo. Nhờ kết hợp chặt chẽ giữa việc khảo nghiệm, nhân giống và chuyển giao giống cây trồng mới gắn với các mô hình khuyến nông nên các giống cây trồng cạn mới cũng đã tiếp cận được đến người nông dân, nhân rộng trong sản xuất, thay thế các giống cũ. Tỷ trọng giống mới, giống lai, giống cao sản cao hơn các năm trước. Cụ thể: Giống lạc HL 25, LDH 01, TB25… các giống ngô lai LVN 10, LVN 61 (TB61), T 7, BiO 06, DK 171, PAC 759, 30Y87, WAX44, KK67, NK66... các giống đậu tương: MTD 176, PC 19, D 140, DF 200-1, DT 84; các giống sắn cao sản: KM 94,
KM 140-2, KM 98-1, KM 98-5, KM146, KM163, KM 98-8, KM 98-7…Các giống mía cao sản R 570, R579, F 156, NCo 310, K 84-200…
Nhờ vậy, tuy diễn biến thời tiết, dịch bệnh cây trồng ngày càng gay gắt, khó lường nhưng năng suất, sản lượng các loại cây trồng, nhất là cây lương thực có hạt như lúa, ngô, cây trồng cạn như lạc, rau màu vẫn ổn định theo xu hướng tăng hàng năm, cao hơn so với năng suất trung bình chung của các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ. Cụ thể: Năng suất lúa tăng từ
50,2 tạ/ha năm 2006, đến năm 2010 đạt 56 tạ/ha; lạc năm 2010 trung bình đạt 27,8 tạ/ha so với năm 2006 chỉ đạt 22,6 tạ/ha; ngô năm 2006 mới đạt 47,2 tạ/ha đến 2010 đạt 52,1 tạ/ha.
Nhờ đẩy mạnh nghiên cứu, khảo nghiệm, chọn lọc và nhân giống vật nuôi thông qua các đề tài ứng dụng cấp tỉnh, cấp cơ sở cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh chương trình cải tạo giống bò, nạc hóa đàn lợn,… đã góp phần đưa tỷ lệ bò lai của tỉnh chiếm trên 50% tổng đàn. Đã cung ứng hàng ngàn con lợn giống ngoại, các giống vật nuôi mới như gà Ai Cập, gà Sao, dê Boer, … cho người nông dân trong tỉnh. Đã chuyển giao cho người chăn nuôi 140 dê đực giống Boer thuần và hơn 200 dê cái lai; 30.000 gà Sao và 15.000 gà Ai Cập cho các huyện, thành phố trong tỉnh.
Do thích nghi tốt với điều kiện khí hậu và phương thức chăn nuôi bán chăn thả trong điều kiện chăn nuôi của tỉnh, công tác lai tạo đàn bò của tỉnh bằng giống bò nhóm Zêbu đã mang lại hiệu quả cao, chăn nuôi bò dần đi vào chất lượng, tăng trọng lượng hơi xuất chuồng và rút ngắn thời gian nuôi thịt. Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng tăng cao hơn so với tốc độ tăng đàn. Tổng sản lượng thịt bò từ 10.904 tấn năm 2005 tăng lên 21.910 tấn năm 2010, trong khi đó, tổng đàn năm 2010 giảm so với năm 2005 là 4,4%. Tổng đàn gia cầm giai đoạn 2006 - 2010 tăng qua hàng năm, tỷ lệ thuận với sản lượng thịt gia cầm hơi, sản lượng trứng gia cầm năm 2010 tăng gấp 3,1 lần so năm 2005. Vòng quay trong chăn nuôi gia cầm cao, người chăn nuôi đã thay đổi con giống gia cầm địa phương bằng con giống cao sản có chu kỳ sinh trưởng phát triển ngắn, sức sản xuất cao và nuôi theo phương thức trang trại có đầu tư thâm canh cao về chuồng trại, thức ăn và kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng.
Kết quả nghiên cứu của các đề tài trong lĩnh vực giống thủy sản như: “Nghiên cứu ương nuôi cá chua bột từ nguồn giống tự nhiên trong bể xi măng”, “Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cá chim trắng”, “Nghiên cứu ương nuôi cua thương phẩm từ giống sản xuất nhân tạo”, “Nghiên cứu sinh sản và ương nuôi thương phẩm cá bống tượng”đã góp phần chủ động nguồn giống các đối tượng thủy sản có giá trị cao trong sản xuất. Diện tích nuôi các đối tượng thủy sản tăng. Diện tích nuôi cua từ năm 2006: 597 ha, sản lượng: 394 tấn, năm 2010 tăng lên 1.210 ha, sản lượng: 1.452 tấn.
Trong lĩnh vực lâm nghiệp, để nâng cao chất lượng rừng trồng, ngành nông nghiệp đã tập trung nghiên cứu, điều tra, bình tuyển các cây đầu dòng, chuẩn hóa giống cây lâm nghiệp, hình thành nguồn cung ứng cây giống chất lượng cao, xây dựng phòng nuôi cấy mô... đảm bảo cung cấp giống cho phát triển rừng của tỉnh. Các đề tài “ Trồng thử nghiệm cây song bột dưới tán rừng tự nhiên tại Bình Định”,“ Trồng thử nghiệm cây rép”, “Bình tuyển giống xoan ta, dó bầu”đã xác định thêm một số loại cây rừng có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên nhằm bổ sung vào chủng loại cây lâm nghiệp của tỉnh.
Qua kết quả đáng khích lệ trên, vẫn còn nhiều tồn tại sau đây:
- Hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp chưa đủ mạnh, còn phân tán; cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và chưa đồng bộ nên chưa đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp và nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
- Công tác nghiên cứu khảo nghiệm giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản vẫn còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn sản xuất nhất là trong điều kiện phát triển nông nghiệp gắn với bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu.
Thời gian đến ngành nông nghiệp tỉnh tập trung vào những nội dung sau:
1. Khảo nghiệm, tuyển chọn các giống cây trồng, vật nuôi triển vọng, phù hợp với địa phương, để bổ sung nhanh vào cơ cấu giống sản xuất của tỉnh. Trong đó, ưu tiên các giống có năng suất cao, phẩm chất tốt, có khả năng thích ứng điều kiện bất lợi, chống chịu dịch bệnh để chủ động ứng phó điều kiện biến đổi khí hậu và dịch bệnh ngày càng diễn biến bất thường, khó lường.
2. Nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất giống, công nghệ nuôi các đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế cao và giá trị xuất khẩu trên thủy vực nước ngọt, nước lợ, mặn; hạn chế dịch bệnh, tạo sản phẩm sạch.
3. Nghiên cứu xác lập tập đoàn giống cây trồng rừng phù hợp với điều kiện lập địa và thích hợp với từng vùng sinh thái, nhất là giống cây bản địa, cây cải tạo đất, cây đa mục đích cho trồng rừng phòng hộ và phát triền lâm nông kết hợp; nghiên cứu chuyển giao công nghệ nhân giống vô tính như chiết, ghép, giâm hom.
4. Tập trung nhân nhanh các giống cây trồng, vật nuôi đã khảo nghiệm thành công vào sản xuất đại trà thông qua các chương trình, mô hình khuyến nông, khuyến ngư và phát triển nông nghiệp, nông thôn…








