Nét đẹp kiến trúc dân gian ở đình làng Đình Bảng
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Đình Bảng với anh thì về
Dòng họ Nguyễn Thạc ở đây nổi tiếng bảy đời làm quan. Ông Nguyễn Thạc Lượng đời làm quan thứ 6, còn nổi tiếng bởi đã bỏ công - của để làm ngôi đình. Năm 1686, khi từ quan, an nghỉ tuổi già, ông Nguyễn Thạc Lượng và cụ bà Nguyễn Thị Nguyễn đã mang theo 8 bè gỗ lim từ Thanh Hoá ra Đình Bảng làm 3 ngôi từ đường cho dòng họ, qua đó đã chọn tốp thợ làng Pha (Thanh Hoá) để làm đình làng Đình Bảng. Công việc này đã diễn ra trong vòng 50 năm ròng!
Tương truyền, tốp thợ đầu tiên đến xây dựng ngôi nhà thờ có dắt theo người cháu nội 5 tuổi, khi hoàn thành ngôi nhà thờ và ngôi đình làng Đình Bảng nổi tiếng thì người cháu ấy đã là thợ cả tài năng 55 tuổi, đó là năm 1736.
Từ xưa, bảng xếp hạng di tích trong dân gian đã dành cho Đình Bảng vị trí thứ hai:
Thứ nhất là đình Đồng Khang
Thứ nhì Đình Bảng, vẻ vang đình Diềm.
Nhưng kể cả những người đã thuộc câu ca truyền đời ấy, vẫn không ai hình dung đình Đồng Khangra sao? Vì ngôi đình này đã bị phá từ lâu. Nên Đình Bảng- ngôi đình mà ngày nay họ được chiêm ngưỡng - đã ở hàng đầu vị trí bảng xếp hạng trên.
Đình Bảngnguyên trước thờ 3 vị Thành hoàng là các thần Đất, thần Nước, thần Trồng trọt: Cao Sơn Đại vương, giúp dân đi rừng, đi núi tránh được thú dữ; Thuỷ Bá Đại vương, giúp dân đi biển sông không bị đắm thuyền; Bạch Lệ Đại vương, dạy dân cấy lúa trồng màu.
Các thần thờ ở Đình Bảng có mô hình chung của các cư dân nông nghiệp.
Khi đồng lúa đã trải dài bát ngát, cuộc đấu tranh đẩy lùi rừng rậm, đồng lầy không còn nữa, mà việc canh tác trở nên quan trọng thì người ta nhớ đến Thành hoàng Bạch Lệ Đại vương.
Truyện kể rằng: lúc mới quần cư lập làng, người dân Đình Bảng chỉ biết dựa vào thiên nhiên, như lên rừng bắt thú, xuống nước bắt cá, lúc được lúc không, cuộc sống không bảo đảm. Thế rồi một hôm có một lão nông đến dạy cho mọi người khai phá đất đai, nơi thấp trồng lúa, nơi cao trồng màu: bầu, bí, ngô, lạc…, nhờ vậy người Đình Bảng đã có cuộc sống ấm no.
Đến một năm mùa màng bội thu, vị lão nông tập hợp mọi người lại, mở ống nứa, rút ra một cuộc giấy, đó là bức tranh Lệ Thần, rồi bảo dân làng hãy lập miếu thờ vị thần khai sáng đó. Hôm sau dân làng không còn thấy lão nông đâu nữa, mới biết thần hoá.
Đình được nằm ở một thế đất bằng phẳng. Nhìn mặt ngoài đã cảm nhận ngay bởi nghệ thuật tuyệt vời do các bàn tay điêu luyện của những người thợ mộc năm xưa: những con rồng làm chốt bẩy có thân hình nhỏ nhắn, hai chân quặp hai sợi râu mép, dáng hình ngộ nghĩnh, nét mặt như cười. 28 con rồng là 28 cuộc sống sinh động đa dạng.
Trên 8 đầu bẩy trước còn được đặt thêm 8 đầu rồng, nghê để đỡ mái cũng là những tác phẩm điêu khắc không đồng bản, mang ấn tượng đẹp. Nhìn vào cửa chính, ngắm từ bên ngoài: thành không cửa được phủ bằng hai dải hoa văn cân đối. Một bên tìm cái đẹp trong những cấu trúc nét thẳng, có góc cạnh, còn bên kia lại hiện lên cái đẹp từ những đường cong mềm mại, nhịp nhàng. Đúng là tài nghệ của hai tốp thợ làm cho những đường cong, nét thẳng như đang lên tiếng.
Dưới hai dải hoa văn ấy có hai khối tượng tròn, đó chính là hai cối gỗ để tra cánh cửa, được nghệ nhân tạo thành hai con nghê ở tư thế nằm phục chầu nhau. Con bên phải đeo ba quả lục lạc nét mặt hơi dữ tợn. Con bên kia mặt dịu hiền, không đeo nhạc.
Rồng điển hình ở Đình Bảng có vẩy trơn, sừng ngắn, mũi thú, mồm loe rộng, môi dày, mặt nhìn ngang hoặc quay một phần ba ra ngoài, dọc sống lưng có đường vẩy. Dưới bụng có đốt, bàn tay người. Quanh rồng có cả cụm mây.
Sau rồng, các nghệ nhân còn chạm phượng và long mã, tuy không nhiều nhưng cũng làm cho ngôi đình thêm phong phú. Ba bức chạm phượng, mỗi con một vẻ, đều được gia công tỷ mỷ.
Chạm lộng cầu kỳ nhất là 12 chiếc đầu dư ở 12 cột mái của 5 gian chính, có nhiệm vụ trợ lực các câu đầu. Mỗi chiếc đầu dư đã được các nghệ nhân hoá thâncho thành một con rồng, xếp gọn trong một đoạn gỗ ngắn có hình khối trụ nằm ngang. Rồng có hai chân đạp vào cột lấy sức đưa đầu vươn ra xa trong khoảng không lộng gió, làm cho râu và tóc bay ngược về phía sau. Toàn thân rồng luồn qua cột lớn để lại phần đuôi bên kia cột. Cuối cùng phải nhắc đến hai tượng tròn tạc hai con nghê gỗ ở đầu dư của xà hạ. Đôi nghê không nằm mà ngồi xổm, chống thẳng hai chân trước như hai trục đỡ vững chắc.
Hầu hết các bức trạm đều bố cục theo chiều ngang, một vài bức cốn, xà nách và các gian phía tây, rồng được tạc theo tư thế đứng thẳng, đã biểu lộ tài năng điều hoà các yếu tố nghịch nhau rất khéo léo của các nghệ nhân. Ở đây có sự kết hợp chặt chẽ giữa trang trí và kiến trúc. Nhờ nó mà các phiến gỗ nặng nề bỗng trở nên nhẹ nhàng, bay bổng và làm cho công trình kiến trúc đồ sộ này với bầu trời mênh mông kia có một không gian hoà đồng rộng lớn.
Đình làng Đình Bảng đúng là một ngôi đình mang nặng tình người, bởi sự đóng góp công lao, tiền bạc của ông Nguyễn Thạc Lượng và hai tốp thợ tài ba, với óc thẩm mỹ tinh tế cùng những bàn tay trác tuyệt, đã tạo nên một công trình kiến trúc tôn giáo kỳ vĩ, tuyệt vời, là điểm nhấn đầy ấn tượng của xứ Kinh Bắc ngàn năm văn hiến.
Nguồn: Dân tộc và Thời đại, số 87, tr 8, 9








