Nếp sống của người Hà Nội
Đừng khắt khe đòi hỏi phải sống qua ba, bốn hay năm đời ở Hà Nội mới là người Hà Nội, mà phải là dân nội thành và nhất là ở khu “36 phố phường” mới là “Hà Nội gốc” mà thời trước vẫn mượn tiếng Tây mà gọi là “Hanoien”.
Khảo sát kỹ lưỡng dòng họ nổi tiếng sống lâu đời và thành danh tại đất Thăng Long – Hà Nội này như họ Nguyễn ở đất Trung Tự (xưa là làng nay là khu phố thuộc phường Phương Liên) vốn là phường Đông Tác xưa, thì theo gia phả là người gốc Gia Miêu (Thanh Hoá) ra Đông Đô sau ngày vua Thái Tổ lập triều Lê (thế kỷ XV – XVI), đến nay đã 17 đời. Hoặc như họ Phạm nổi tiếng ở Đông Ngạc cũng gốc làng Đông Biên (Thanh Hoá) ra Thăng Long từ cuối thế kỷ XIV, đến nay cũng đã 18 đời…. Vậy thì hãy coi những ai đã và đang sống cùng gia đình, lập nghiệp và làm ăn ở Hà Nội là người Hà Nội.
Xa xưa, Hà Nội còn được tiếng là kẻ Chợ và dân ở đây cũng được gọi nôm là “người Kẻ Chợ”. Ta biết rằng trước khi Lý Công Uẩn rời đô từ Hoa Lư ra nơi đây thì ngoài dấu tích thành Đại La xưa của người phương Bắc lập làn trị sở đã có cộng đồng dân cư người Việt trú ngụ đông đúc làm ăn buôn bán khá trù phú và thực sự là một cái chợ lớn của cả một vùng quanh lưu vực sông Hồng. Vì thế, lớp cư dân sớm nhất sống ở đây hẳn là hội tụ từ các làng quê tứ xứ tụ họp để làm ăn, sống thành từng phường hội để mang nghề thủ công và sản vật từ quê của mình lên trao đổi buôn bán. Do vậy, Hà Nội vừa là nơi hội tụ của giới công thương, lại là nơi hội tụ của các cộng đồng từ các làng xã lên làm ăn đem theo sản vật và nghề nghiệp, cũng như lối sống của cả cái đình làng và tổ nghiệp lên Kẻ Chợ.
Nhưng từ thế kỷ XI, khi kinh đô nước Đại Việt định vị ở Thăng Long thì nơi đây trở thành nơi hội tụ quyền lực của quốc gia với thành quách và bộ máy triều đình, hình thành một tầng lớp quan được đào tạo qua thi cử, được tuyển chọn theo học vấn. Một trong những công trình được xây dựng sớm nhất và tiêu biểu nhất của Thăng Long là Văn Miếu - Quốc Tử Giám với nguyên lý dựng nước: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” đã khiến Thăng Long – Hà Nội là nơi quy tụ trí tuệ và nhân tài của cả nước.
Lại đừng quên rằng, vùng đất này từng là trị sở của người phương Bắc, cũng nhờ đó mà tiếp thu được nhiều tinh hoa của nền văn minh Trung Hoa. Khi Đại Việt tự chủ vẫn rộng cửa đón nhận người tứ phương. Rồi gần 7 thập kỷ bị thực dân Pháp chiếm đóng là cơ hội để Hà Nội tiếp nhận những tinh hoa của văn minh phương Tây, bổ sung vào tri thức và lối sống của người Hà Nội… Như vậy, Hà Nội vừa là Kẻ Chợ, vừa là Kinh đô, lại là Trường Thi và là nơi tiếp xúc với các nền văn minh bên ngoài tổng hoà qua một thời gian rất lâu dài tạo thành một đặc trưng không nơi nào có được, để hình thành cái tinh hoa của riêng mình, cũng là cái tinh hoa tiêu biểu cho một quốc gia. Do vậy mà ý niệm về Văn hiến Thăng Long cũng là cốt cách của Văn minh Đại Việt. Rất khó mô tả thành tình tiết thế nào là lối sống Hà Nội nếu không dùng đến một ý niệm chung là sự thanh lịch. Thanhlà phẩm chất tự thân của mỗi con người, còn lịchlà tính cách trong ứng xử, giao tiếp với cộng đồng. Các đặc trưng ấy bắt nguồn từ một vùng địa linh mà vị vua lập đô với con mắt tinh anh đã nhận ra khi xuống Chiếu dời đô“là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương…, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”.
Còn như ngày nay, chúng ta thường diễn đạt: Hà Nội là nơi hội tụ hội tinh hoa của cả nước và lan toả tinh hoa ra cả nước. Trong thời đại hội nhập này sự hội tụ và sức lan toả của Hà Nội còn rộng ra cả thế giới.
Sống đàng hoàng, sống tử tế, sống hào hoa, sống thanh lịch, sống có văn hoá, sống văn minh… tất cả những ý niệm tốt đẹp ấy đều thuộc về nếp sống người Hà Nội. Và cũng chính vì thế mà mỗi người sống ở Hà Nội phải phấn đấu mới thực sự xứng danh là người Hà Nội. Nói cách khác, lối sống của người Hà Nội là phấn đấu không ngừng để giữ được cái vinh danh là người Hà Nội.