Năm Mậu Tý và cửu vị thần công ở Huế
Triều đình Đồng Khánh đã chấp nhận và đã nhờ Pháp mua máy móc và khuôn đúc. Đến tháng 4 năm 1887, thực dân trả lời là chúng không mua được máy; do đó chúng dự định phá toàn bộ các cỗ súng thu được của ta thành đồng vụn để bán lấy tiền. Trước tình hình đó, triều đình Đồng Khánh đã đề nghị Pháp giao trả lại chín cỗ “Hùng dũng vô định thượng tướng quân”; đó là chín khẩu súng lớn, tượng trưng cho uy lực của triều đình từ xưa để lại, số còn lại chia làm mười phần, thực dân Pháp sở hữu bảy phần, ba phần còn lại triều đình Huế đúc thành tiền để chi dùng.
Tháng 6 năm 1887, thực dân ước tính với hơn 600 cỗ súng, sẽ được 70 vạn kilô đồng, có giá trị thành tiền 70 vạn franc; nếu đúc thành đồng phải mất hàng chục năm, sẽ không đáp ứng kịp cho việc xây dựng của chúng. Do đó chúng định giá bảy phần mười số đồng đó là 50 vạn franc, quy ra thành 12.050 đồng bac. Số tiền này chúng bắt triều đình Huế chuộc bằng tiền mặt ngay!
Mãi đến 5 tháng sau, vào những ngày đầu năm Mậu Tý (1888), chúng mới đồng ý để trao trả lại chín khẩu thần công đó cho triều đình, nhờ thế mà “số phần” của nó vẫn tồn tại được cho đến ngày nay! Sách Đại Nam thực lục (1) chép: “Tháng giếng năm Mậu Tý (1888), nước Pháp giao trả 9 khẩu súng đồng Hùng dũng đại tướng quân. Cho vẫn để ở xưỏng đại tướng quân”. (Sđd, tr. 43).
Xưởng “đại tướng quân” là một nhà trống, phía sau có một bức vách rộng 2m50, cao 3m35 vẽ dọc năm màu khác nhau, viết những câu đối ngợi ca chín cỗ súng. Sát vách có một cái bàn đá quét vôi, thường được thắp hương, đó là bàn thờ các vị súng thần.
Cửu vị thần công đã được đúc dưới thời vua Gia Long. Sách Sử Quốc triều chính biên toát yếu (2) chép: “Năm Quý Hợi thứ II (1803) đúc 9 khẩu súng đồng (đặt tên là Xuân, Hạ, Thu, Đông, Kim, Thuỷ, Mộc, Hoả, Thổ). Khi đúc xong rồi, làm bài minh để ghi cho nhớ (năm Gia Long XV, ngài mang danh là “Thần Oai Vô Địch Thượng Tướng Quân”) (Sđd, tr. 71).
Trong tạp chí Huế xưa và nay số 3/1993 (3), tác giả Lê Văn Hoàng đã dịch nghĩa nội dung của bài minh như sau:
“Năm Giáp Ngọ (1774) Ngự giá đông tuần. Năm Mậu Thân (1788) đạo quân kéo vào Gia Định. Năm Tân Dậu (1801) vào tháng hai trong mùa hè lấy lại được cựu đô. Năm Nhâm Tuất (1802) vào tháng 2 trong mùa hè đạo chánh quân tập trung về Bắc để biểu diễn. Vào tháng 7, tin mừng thắng trận tâu về vua đổng tất. Cũng trong năm ấy, rút quân trở về để làm lễ kỳ cáo ở Thế Miếu rằng bọn phản nghịch đã tiêu diệt. Mùa Xuân năm Quý Hợi (1803), vua sắc ban thâu góp đồng lấy được của địch để đúc 9 khẩu đại bác. Đến tháng 12, thợ tâu lên đã hoàn tất công việc, chỉ còn khắc bài minh để làm kỷ niệm” (Sđd, tr. 69).
Tất cả chín khẩu thần công đều được đặt trên giá gỗ có bánh xe. Mặt ngoài giá súng có chạm khắc hình rồng. Đặc biệt có một đầu rồng chạm nổi, mắt lồi ra trông rất dữ.
Lệ thường hàng năm triều đình nhà Nguyễn thường cúng đại lễ “cửu vị thần công” tại ty Hộ vệ ở trong Đại Nội. Chánh tế là vị Quản đốc Thần công. Nhà vua có ban sắc lễ “tam sanh” là trâu, heo và dê. Đến thời Đồng Khánh (1886), lễ tế được bãi bỏ vì quá tốn kém, chỉ làm lễ cúng ở miếu Hoả thần. Tuy nhiên, vì thói quen không thể bỏ được, cứ đến ngày mồng một và ngày rằm, Quản đốc và toán lính hộ vệ mua sắm lễ vật để cúng tế trước bàn thờ thần. Thời đó, mỗi lần khách bộ hành đi qua trước cửu vị thần công đều phải “khuynh cái hạ mã” (cất nón xuống ngựa). Đến thời Khải Định (1923) lệ này mới được bãi bỏ.
Các cỗ súng thần công chưa bao giờ được đưa ra mặt trận, vì thế nó chỉ có ý nghĩa tượng trưng cho uy lực.
“Cửu vị thần công” là công trình của một tập thể nghệ nhân đúc đồng giàu kinh nghiệm và kỹ thuật cao của nước ta vào đầu thế kỷ XIX. Để thực hiện điều đó, phải có sự phối hợp đồng bộ qua các khâu: làm mẫu, tạo khuôn, đúc, làm nguội và trang trí. Kỹ thuật đúc 9 khẩu thần công không chỉ nói lên tầm cỡ về kích thước, trọng lượng của các cỗ súng, mà còn là biểu hiện trình độ pha chế kim loại cao của người thợ đúc đồng xứ Huế. Đồng thời, cho ta thấy nét tài hoa của những bàn tay người thợ, được thể hiện qua các hoa văn, chữ khắc rất mỹ thuật và rõ ràng. Tất cả đã tạo nên một thành quả tầm cỡ, có tính biểu tượng mạnh mẽ cao.
Tài liệu tham khảo:
1. Đại Nam thực lục chính biên toát yếu, KHXH, Hà Nội, 1978.
2. Sử Quốc triều chính biên toát yếu, Nxb Thuận Hoá, 1998.
3. Tạp chí Huế xưa và nay, Hội Sử học Thừa Thiên - Huế, số 3/1993.
4. Việt Nam những sự kiện lịch sử, T.2, Nxb KHXH, 1981.