Một xét nghiệm mới để tìm ra bệnh lao
* Dễ bị sai do kỹ thuật tiêm trong da và cách đọc kết quả;
* Người được thử phải trở lại sau 48 – 72 giờ để được đọc kết quả;
* Có tỷ lệ âm tính và dương tính giả đáng kể: 25 – 50% người bị lao phổi nặng, lao kê hay lao màng não có thể có phản ứng âm vì bị giảm miễn dịch, suy dinh dưỡng, bị bệnh ác tính, nhiễm HIV…; ngược lại, những người đã được chủng ngừa BCG hoặc nhiễm Mycobacterium khác (không phải lao) có thể có phản ứng dương.
Vì vậy, nhiều năm qua các nhà nghiên cứu cố gắng cải thiện phương pháp chuẩn đoán lao. Và một trong các phương pháp mới đã được áp dụng là: đo nồng độ interferon gamma trong máu (gọi là QuantiFERON TB-Gold).
Từ sự tinh chế tuberculin, người ta tổng hợp được 2 protein chuyên biệt mà tác dụng trên tế bào lympho T của người nhiễm lao làm tiết ra Interferon Gamma. Xét nghiệm QuantiFERON TB-Gold (QTF-G) dùng ESAT-6 (1) và CFP-10 (2) cho tác dụng vào một mẫu máu, ủ trong 12 giờ để đo nồng độ interferon gamma bằng phương pháp ELISA.
Vì làm tại phòng thí nghiệm nên QTF-G tránh được trở ngại do việc tiêm tuberculin trong da và sự chủ quan của người đọc phản ứng. Người được thử chỉ cần đi khám một lần nữa. Bất tiện là phải có phòng thí nghiệm, ủ máu 12 giờ với kháng nguyên, lấy huyết tương để đo bằng phương pháp ELISA. Mặt khác lấy được 5ml máu ở một trẻ em nhỏ là một điều khó.
Theo các báo cáo, QTF-G có tính nhạy cảm và tính đặc hiệu cao hơn phản ứng tuberculin. Trong một nhóm gồm 99 sinh viên y khoa ở Hàn Quốc đã được chủng ngừa BCG, tính đặc hiệu của QTF-G là 96% so với 49% của phản ứng da, tính nhạy cảm của QTF-G là 81% so với 78% của phản ứng da.
Ngày 2.5.2005 Cơ quan quản lý thực - dược phẩm Mỹ (FDA) đã chấp thuận cho sử dụng QTF-G để tìm bệnh lao. Trung tâm kiểm soát và phòng bệnh của Mỹ khuyến cáo dùng QTF-G cũng như phản ứng da trong việc truy tìm và theo dõi những người có nguy cơ bị lao tiềm ẩn cao cũng như những người tuy không có nguy cơ lao tiềm ẩn cao nhưng vì lý do nghề nghiệp dễ bị tiếp xúc với vi khuẩn lao.
_____________
(1) ESAT-6: Early Secretory Antigenic Target 6
(2) CFP-10: Culture Filtrate Protein 10
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 302, 15/2/2006), tr 19