MỞ VÀ THẮT TRONG QUẢN LÝ NGHIÊN CỨU KH&CN
1. Mở
Chuyển đổi niên độ quản lý
Giới nghiên cứu KHCN phản ánh, phàn nàn về sự bất hợp lý của cơ chế quản lý theo niên độ năm tài chính. Quả vậy, nghiên cứu KHCN là lĩnh vực đặc thù, nhưng nước ta chủ yếu vẫn quản lý theo niên độ tài chính. Theo đó, các ĐT-DA phải đề xuất đồng loạt, tuyển chọn đồng loạt (vào cuối năm trước) và nghiệm thu đồng loạt vào cuối năm sau (đối với ĐT-DA 01 năm) hoặc năm sau nữa (đối với ĐT-DA 02 năm). Cơ chế này có một số nhược điểm. Một là,những ý tưởng mới xuất hiện không đúng thời điểm là đành phải chờ đến kỳ tuyển chọn mới, có thể bị lỡ cơ hội cạnh tranh sáng tạo. Hai là,hội đồng tuyển chọn, hội đồng nghiệm thu phải làm việc quá tải, chất lượng khó tránh khỏi bị hạn chế. Ba là,ĐT-DA phải triển khai từ đầu năm, nhưng kinh phí thường đến tháng 3 hoặc tháng 4 hàng năm mới có, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện đề tài.
Ngược lại với cơ chế trên, cơ chế quản lý của Quỹ hoàn toàn khác (Quỹ phát triển khoa học công nghệ, Quỹ đổi mới công nghệ, Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao). Ý tưởng mới xuất hiện, có đơn vị và cá nhân đề xuất là được thẩm định, tuyển chọn, nếu trúng tuyển thì được rải ngân, không bị lỡ cơ hội. Việc đề xuất, tuyển chọn và nghiệm thu đề tài, dự án KHCN được rải ra, các hội đồng có điều kiện để bàn định kỹ hơn. Cơ chế quản lý KHCN của các doanh nghiệp cũng tương tự như vậy, thậm chí còn đơn giản, thuận lợi hơn.
Vấn đề là, chuyển đổi quản lý theo cơ chế của Quỹ, hay là chuyển kinh phí sang Quỹ trực tiếp quản lý. Để có cơ chế quản lý đặc thù trong khi ngân sách vẫn trực tiếp đầu tư cho ĐT-DA thì phải sửa Luật Ngân sách, Luật Kế toán, hoặc ban hành Nghị định Chính phủ, Thông tư liên tịch. Đây là vấn đề không đơn giản. Không riêng lĩnh vực KHCN mới có họat động sáng tạo được ngân sách đầu tư, mà một số lĩnh vực khác (như lĩnh vực nghệ thuật) cũng có hoạt động sáng tạo và cũng được ngân sách đầu tư. Xu hướng khả thi nhất là giảm phần ngân sách trực tiếp đầu tư, tăng phần đầu tư thông qua các quỹ KHCN công lập và thông qua việc hỗ trợ Quỹ KHCN của các doanh nghiệp. Từ năm 2003, Chính phủ đã có Nghị định về việc thành lập Quỹ KHCN, nhưng đến nay Quỹ quốc gia vẫn còn rất nhỏ bé, còn quỹ cấp tỉnh, thành phố, Quỹ cấp bộ ngành, Quỹ cấp Doanh nghiệp thì rất ít nơi thành lập. Như vậy, việc thành lập Quỹ KHCN phải mang tính bắt buộc, đồng thời có cơ chế bổ sung vốn hợp lý, nhưng Quỹ phải thu hồi, quay vòng, bảo toàn và phát triển được vốn. Các nhà khoa học muốn được giải phóng ra khỏi niên độ tài chính, nhưng không phải ai cũng sẵn sàng chấp nhận chuyển từ đổi cơ chế ngân sách đầu tư toàn bộ sang cơ chế hỗ trợ của Quỹ. Việc chuyển đổi hướng vào nhóm đề tài nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ là khả thi nhất. Còn nhóm đề tài nghiên cứu cơ bản và nhóm đề tài khoa học xã hội và nhân văn nếu chủ yếu vẫn do ngân sách trực tiếp đầu tư, thì có lẽ vẫn phải theo niên độ năm tài chính.
Đơn giản hoá thủ tục thanh quyết toán
Vấn đề giới nghiên cứu KHCN còn bức xúc hơn là thủ tục thanh quyết toán. Nhưng việc đơn giản hoá thủ tục thanh quyết toán cũng gặp khó khăn hơn. Hiện nay, chứng từ, thủ tục thanh quyết toán theo định kỳ một năm 2 đợt, xong đợt trước mới cấp tiếp đợt sau…với hàng chục, thậm chí hàng trăm khoản chi. Việc lo chứng từ, thủ tục thanh toán vừa mất quá nhiều thời gian, tâm sức vừa làm phát sinh tiêu cực. Nhưng muốn đơn giản hoá thủ tục, cũng phải sửa Luật kế toán, hoặc ban hành Nghị định Chính phủ, Thông tư liên tịch. Vả lại, đơn giản hoá đến mức độ nào là vấn đề không dễ xác định. Các nhà khoa học muốn được thanh toán theo hướng khoán gọn đến sản phẩm cuối cùng. Đương nhiên, muốn biết một đề tài cần bao nhiêu kinh phí thì phải dự toán chi tiết từng mục chi thì ngân sách mới có căn cứ để đầu tư. Nhưng sau khi đã được thẩm định nội dung và kinh phí, thì nên chăng có cơ chế thanh toán đơn giản theo hướng không cần các chứng từ quá chi tiết? Chứng từ quan trọng nhất phải chăng là Biên bản nghiệm thu của Hội đồng về số lượng và chất lượng sản phẩm KHCN đã được phê duyệt trong thuyết minh và đã ký kết hợp đồng? Vấn đề là, hầu hết sản phẩm KHCN do ngân sách hay Quỹ đầu tư tạo ra chưa phải là sản phẩm thương mại có thể xác định giá trị theo cơ chế thị trường. Bởi vậy, để đơn giản hoá thủ tục thanh quyết toán theo hướng khoán gọn đến sản phẩm cuối cùng thì khâu tuyển chọn, thẩm định, nghiệm thu phải được bảo đảm chặt chẽ hơn hiện nay rất nhiều. Có như vậy mới công bằng, khách quan.
Ngành nào cấp phát, thanh quyết toán phần kinh phí do ngân sách đầu tư cho các đề tài là hợp lý nhất, cũng là vấn đề cần được cân nhắc. Ví dụ, ở cấp địa phương, đến nay vẫn còn 40% tỉnh, thành phố do Sở KH-CN vừa quản lý nội dung ĐT-DA vừa trực tiếp cấp phát, thanh quyết toán kinh phí, còn 60% các tỉnh đã chuyển sang Ngành tài chính trực tiếp cấp phát thanh quyết toán để sở Khoa học-Công nghệ tập trung quản lý nội dung nghiên cứu. Phương thức nào là có hiệu quả hơn, khách quan hơn, cơ quan có thẩm quyền cần tổng kết và chỉ đạo thống nhất.
2. THẮT
Tái cơ cấu đầu tư
Đổi mới cơ chế quản lý, thanh quyết toán là cần thiết. Nhưng sự đổi mới thực sự mang tính chất đột phá lại nằm ở cơ chế đầu tư. Thực ra, nhà nước đã có văn bản quy phạm về cơ chế đầu tư. Thông tư liên tịch số: 44 /2007/TTLT-BTC-BKHCN củaBộ KH&CN - Bộ Tài chính đã quy định:Ngân sách nhà nước đầu tư vào các đề tài, dự án KH&CN thuộc hướng nghiên cứu trọng điểm được xác định trong chiến lược phát triển KH&CN; các đề tài, dự án KH&CN thuộc lĩnh vực nghiên cứu cơ bản hoặc nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, nghiên cứu chiến lược, chính sách và lĩnh vực công ích phục vụ phát triển kinh tế xã hội của cả nước, địa phương, vùng lãnh thổ. Đối với các đề tài, dự án KH&CN thuộc hướng KH&CN ưu tiên của Nhà nước, ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí thực hiện đề tài, dự án theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.Các đề tài, dự án KH&CN thuộc hướng KH&CN nghiên cứu triển khai ứng dụng, phát triển công nghệ và các đề tài, dự án KH&CN thuộc các lĩnh vực khác, chủ yếu do tổ chức, cá nhân tự đầu tư kinh phí.
Nhưng thực tế nhiều năm nay, trên 90% ĐT-DA KHCN và cũng từng ấy mức vốn ngân sách đầu tư cho nghiên cứu KHCN vẫn đang đầu tư dàn trải mang tính chất của cơ chế bao cấp:dùng tiền nhà nước để nghiên cứu và nộp sản phẩm cho nhà nước (như là cơ chế quản lý kinh tế cách đây 30 năm).Ở cấp địa phương, nguồn đăng ký chủ yếu là do các cá nhân, đơn vị hành chính sự nghiệp đề xuất. Sự trùng lặp ĐT-DA cấp ngành với cấp địa phương và giữa các địa phương, giữa cái cũ và cái mới, giữa đề tài với luận văn thạc sỹ, tiến sỹ lại chưa được kiểm soát chặt chẽ. Hàng năm, có hàng ngàn ĐT-DA do ngân sách đầu tư hầu hết được nghiệm thu đạt loại khá và xuất sắc, nhưng rất ít sản phẩm được công nhận là phát minh, sáng chế, tiến bộ kỹ thuật, thậm chí được công nhận là sáng kiến cũng rất ít, số bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu trên các tạp chí có uy tín trong nước và quốc tế cũng ít. Thực tế, các sản phẩm KHCN ở nước ta được công nhận phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, được bảo hộ quyền sỡ hữu trí tuệ phần lớn lại là phẩm không phải của ĐT-DA do ngân sách nhà nước đầu tư. Cái nghịch lý này ở cấp địa phương càng bộc lỗ rõ. Kinh phí nghiên cứu KHCN được phân bổ về các địa phương tương đối lớn, khoảng 40%. Nghiên cứu KHCN ở cấp địa phương gần như toàn bộ là nghiên cứu cải tiến và áp dụng sản phẩm KHCN đã có, nhưng lại được đầu tư hoàn toàn bằng ngân sách nhà nước( với mức khá lớn, bình quân 500 triều đồng/đề tài). Việc công nhận kết quả nghiên cứu chỉ cần ở mức thấp (là sáng kiến, là tiến bộ kỹ thuật, chưa đòi hỏi phát minh, sáng chế) cũng như việc giới thiệu trên các tạp chí chuyên ngành trong nước đều không rõ.Chừng nào các nhà nhà khoa học chủ yếu vẫn dùng tiền nhà nước để nghiên cứu và nộp sản phẩm cho nhà nước và chừng nào các nhà khoa học quan tâm chủ yếu đến thu nhập ngay trong quá trình nghiên cứu mà chưa quan tâm nhiều đến thu nhập do chuyển giao kết quả nghiên cứu thì chất lượng, hiệu quả nghiên cứu vẫn chưa có thể được cải thiện nhiều. Dù là quản lý theo niên độ năm tài chính hay quản lý theo cơ chế của Quỹ thì đều phải hạn chế sự bao cấp của nước. Cụ thể là, nhóm các vấn đề nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu Khoa học xã hội và nhân văn mới được ngân sách đầu tư chủ yếu hay toàn bộ. Vấn đề là, ở nước ta, các tổ chức KHCN công lập đang đảm nhiệm nghiên cứu phần lớn các ĐT-DA thuộc nhóm trên. Các tổ chức này đã được nhà nước chi trả lương cho các nhà khoa học. Theo cách làm của nhiều nước, trong trường hợp như vậy, kinh phí ĐT-DA dành cho tiền công lao động khoa học cần được cân đối ở mức hợp lý. Còn lại nhóm các vấn đề nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ, chủ yếu ngân sách hoặc Quỹ chỉ hộ trợ, Quỹ cho vay ưu đãi, hoặc góp vốn. Luật KH-CN đã xác định, nhiệm vụ KH-CN được thực hiện bằng đề tài, dự án KHCN và bằng các hình thức khác. Hình thức khác ở đây, chủ yếu là Hội thảo khoa học, vửa bảo đảm tính thời sự, vừa tiết kiệm. Nhưng rất đáng tiếc, nhiều năm nay, việc thực hiện nhiệm vụ KH-CN dưới hình thức hội thảo khoa học độc lập chưa được hướng dẫn và chưa có cơ chế tài chính. Đã đến lúc phải đặt vấn đề rõ ràng hơn về việc giảm số lượng ĐT-DA, tăng hình thức hội thảo khoa học, nhất là lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Giảm số lượng ĐT-DA, tăng cường các hình thức Hội thi, cuộc thi sáng tạo kỹ thuật, tăng giải thưởng cũng là một hướng đầu tư có hiệu quả cần được quan tâm hơn. Ví dụ, lâu nay ở cấp điạ phương, một cuộc thi hay cuộc thi sáng tạo kỹ thuật toàn tỉnh thu hút hàng chục, hàng trăm tác giả tham gia với nhiều sản phẩm sáng tạo có giá trị khoa học và thực tiễn, nhưng mới được đầu tư vài trăm triều đồng, chỉ bằng 30% kinh phí đầu tư cho 01 đề tài là chưa hợp lý. Trong mối quan hệ giữa đề tài và dự án KHCN, giảm đề tài, tăng dự án thì có hiệu quả hơn, nhất là ở cấp địa phương. Ở cấp địa phương chủ yếu là ứng dụng, cải tiến và phát triển công nghệ, gắn với thị trường, nên đầu tư dự án hợp lý hơn là đầu tư đề tài. Về kinh phí cũng tiết kiệm hơn rất nhiều. Vì đề tài thường được ngân sách đầu tư toàn bộ, còn dự án chỉ hỗ trợ. Có một hình thức hạn chế bao cấp gián tiếp khác. Đó là, không tập trung tất cả nguồn ngân sách sự nghiệp khoa học vào cơ quan quản lý KHCN hay Quỹ phát triển KHCN công lập, mà gián tiếp tăng mức để lại được miễn trừ thuế thu nhập ở Quỹ KHCN của doanh nghiệp. Ở các nước phát triển, tỷ lệ vốn đầu tư cho nghiên cứu KHCN giữa nhà nước và doanh nghiệp là 1:3, thậm chí 1:5. Còn ở nước ta, tỷ lệ này đang ngược lại là 5:1. Giảm đầu tư trực tiếp, thay vào đó, khuyến khích bằng giải thưởng KHCN và các chế độ ưu đãi khác cũng là một hướng cần được phát huy. Không những ở tầm quốc gia, mà ở cấp tỉnh, thành phố cũng cần có giải thưởng KHCN. Tái cơ cấu vốn KHCN là tái cơ cấu quan hệ trách nhiệm và lợi ích, có ý nghĩa như là đổi mới quan hệ sản xuất trong nghiên cứu KHCN. Từ đó, chất lượng và hiệu quả nghiên cứu KHCN cũng sẽ được cải thiện theo. Thực tiễn đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế cũng đã diễn ra như vậy.
Đổi mới tuyển chọn, nghiệm thu
Tái cơ cấu nguồn ĐT-DA là vấn đề đầu tiên cần được quan tâm. Nhà nước bỏ kinh phí ra đầu tư, nhưng lại bị động, lệ thuộc vào nguồn đề xuất tản mạn của các cá nhân, đơn vị, nhất là ở cấp địa phương. Luật Khoa học-Công nghệ( 2000) và Nghị định 81 (2001) của Chính phủ đã xác định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước là phải xây dựng chương trình kế hoạch nghiên cứu KHCN, xác định các hướng ưu tiên cụ thể, các nhiệm vụ (ĐT-DA) trọng điểm củả từng cấp. Hướng chuyển đổi là tăng nguồn đặt hàng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nguồn đặt hàng của các doanh nghiệp, nguồn đề xuất của các tổ chức KHCN, giảm nguồn của cá nhân và đơn vị hành chính sự nghiệp. Phải có hệ thống cơ sở dữ liệu để kiểm soát được các nguồn đề xuất, bảo đảm tính mới, tính sáng tạo, tránh trùng lặp.Chủ yếu nhất và quan trọng nhất là phải xác định rõ ràng, cụ thể và phải kiểm soát được các sản phẩm của đề tài, dự án cả về định lượng và định tính. Đối với loại ĐT-DA nghiên cứu cơ bản hay đề tài khoa học xã hội và nhân văn thì sản phẩm chủ yếu là tri thức khoa học ( phát minh, phát hiện mới, luận điểm mới, thông tin mới, tư liệu mới) thì phải được luận chứng là mới, có căn cứu khoa học và thực tiễn, được hội đồng nghiệm thu thẩm định, công nhận. Còn đối với đề tài, dự án nghiên cứu phát triển công nghệ thì sản phẩm chủ yếu phải là công nghệ, quy trình, thiết bị, sản phẩm mới hoặc cải tiến công nghệ, thiết bị, sản phẩm ở mức làm thay đổi đáng kể hoặc cơ bản, có tính ưu việt, tiên tiến hơn công nghệ, thiết bị, sản phẩm hiên có. Điều đó phải được chứng minh, được Hội đồng nghiệm thu thẩm định, công nhận. Sản phẩm loại này phải được đơn vị có thẩm quyền công nhận chí ít cũng là sáng kiến, cao hơn là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền công nhận là tiến bộ kỹ thuật, cao hơn nữa được Cục sở hữu trí tuệ cấp bằng sáng chế, giải pháp hữu ích và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu KH&CN phải được công bố dưới hình thức bài báo khoa học trên tập chí chuyên ngành trong nước, cao hơn nữa là trên các tạp chí có uy tín của quốc tế.
Muốn như vậy thì các quy định, hướng dẫn hiện hành về tuyển chọn và nghiệm thu ĐT-DA KHCN cần tiếp tục được nghiên cứu bổ sung, sửa đổi. Quan trọng nhất là hệ thống các tiêu chí càng cụ thể cả về định tính và định lượng thì càng hạn chế được sự đánh giá cảm tính, áng chừng, chịu sự tác động của các mối quan hệ tế nhị. Chế độ thù lao cho hội đồng tuyển chọn và nghiệm thu ĐT-DA cũng cần được điều chỉnh tăng lên. Thù lao cho Chủ tịch và các thành viên hiện nay là quá thấp so với mức đầu tư cho ĐT-DA. Mặt khác, cần có quy định kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả hơn trách nhiệm của các thành viên hội đồng. Ngoài ra, cũng cần có quy định kiểm soát trách nhiệm của chủ nhiệm ĐT-DA, loại trừ hình thức cai, khoán trắng trong nghiên cứu KHCN.








