Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 18/09/2009 18:33 (GMT+7)

Mở bể than 210 tỷ tấn: Trách nhiệm giải trình

Trao đổi về Đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của QH Lê Quốc Dungnhấn mạnh: Mở bể than không thể chỉ tính đến việc giải bài toán về năng lượng mà còn phải tính đến bài toán về giữ đất lúa và môi trường sống cho người nông dân. Nếu không chúng ta sẽ phải trả giá đắt mà nguồn thu được từ than không thể bù đắp nổi…

Khai thác than và giữ đất lúa

Thưa ông, ông nghĩ thế nào về đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng được đưa ra vào thời điểm này?

Ông Lê Quốc Dung:Trước hết phải thấy rằng, nhu cầu về nguyên, nhiên liệu phục vụ cho công nghiệp hóa ở nuớc ta hiện rất lớn, trong khi các nguồn đều có giới hạn. Chỉ còn nguồn than, nhưng mỏ than ở Quảng Ninh thì trữ lượng cũng hạn chế, khai thác đạt hơn 40 triệu tấn/năm trong khi nhu cầu của Việt Nam lớn, dự báo năm 2015 có thể vọt lên đến 90 triệu tấn. Để đáp ứng nhu cầu trong nước thì sắp tới lượng than xuất khẩu sẽ không còn nhiều.

Hơn nữa nếu phát triển nhiều nhà máy điện chạy bằng than thì việc Việt Nam không còn xuất khẩu than mà phải nhập than về là điều khó tránh khỏi. Qua quá trình thăm dò, chúng ta phát hiện có một bể than ở Đồng bằng sông Hồng rất lớn, với trữ lượng khoảng 210 tỷ tấn. Đồng ý cần phải có thêm nguồn than để giải quyết bài toán năng lượng nhưng có quá nhiều vấn đề đang đặt ra cho đề án này.

Cụ thể những vấn đề đó là gì?

Vấn đề lớn nhất là mỏ than này nằm ở vùng đồng bằng trồng lúa với diện tích đất đai phì nhiêu màu mỡ. Mà diện tích trồng lúa hiện nay ở phía Bắc là tối quan trọng về mặt chiến lược, cả trước mắt và lâu dài. Khai thác than mà vẫn giữ được đất lúa là một bài toán cực kỳ khó khăn. Vì vậy 2 bài toán đặt ra là bài toán nguyên liệu và giữ đất lúa. Bên cạnh đất lúa lại là môi trường sống của rất nhiều người dân. Khó có thể giải quyết 2 bài toán này cùng lúc.

Mặt khác, khi khai thác than có thể sẽ gây lún sụt đất. Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam có đưa ra phương án sẽ bồi hoàn đất trong quá trình lún sụt. Nhưng việc bồi hoàn đất này cũng không hề dễ, nhất là bồi hoàn đất phải bảo đảm độ màu mỡ để trồng lúa. Nói thật, nếu lấy đất khác đổ vào thì làm gì có đất màu mỡ, chỉ có đất cát, mà đất cát thì sản xuất nông nghiệp kiểu gì? Hai nữa là môi trường nước ngầm sẽ giải quyết như thế nào. Nếu hỏng tầng nước ngầm thì sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân.

Còn môi trường mặt đất thì như thế nào? Khai thác lên, còn các phế thải lấy lên thì có giải quyết được không. Đấy là chưa kể đến vùng đồng bằng sông Hồng nền đất xốp và mềm, nguồn nước ngầm lớn, hút đi không dễ thì liệu chúng ta có tháo khô được để khai thác than hay không? Hiện nay, về mặt khoa học, chúng ta chỉ có thể bơm tháo khô được lượng nước 6000 – 10.000 m3/h. Hút nước đi đã khó, lại còn xử lý lượng nước này như thế nào để không ảnh hưởng đến sinh hoạt, đồng ruộng, cây trồng…

Có thể thấy môi trường đất mặt, đất ngầm, nước mặt, nước ngầm là không dễ xử lý và có xử lý được cũng rất nan giải… Chúng ta nói có học tập kinh nghiệm khai thác của nước ngoài nhưng phải chú ý là điều kiện môi trường của họ như thế nào, đất của họ cứng và đặc biệt không có đất lúa…

Còn vấn đề quản lý khai thác than thì sao thưa ông? Khi mà quản lý khai thác than ở Quảng Ninh đang có khá nhiều bê bối?

Thực ra nếu mở bể than đồng bằng sông Hồng thì về công nghệ khai thác sẽ khác mỏ than ở Quảng Ninh. Công nghệ khai thác khác nhau nên quản lý cũng khác nhau. Ở Quảng Ninh chủ yếu là khai thác lộ thiên, khai thác bởi nhiều thành phần kinh tế. Nhưng nếu khai thác than ở đồng bằng sông Hồng thì công nghệ không cho phép khai thác lộ thiên mà lại là hóa khí và hóa lỏng nên chủ yếu các tập đoàn kinh tế lớn mới có thể làm được. Và ai làm phải có giấy phép và công nghệ, không thể tự phát như vùng Quảng Ninh. Nên ở đây sẽ có thuận hơn về quản lý.

Tuy nhiên than khai thác ở đây chưa thể nghĩ đến xuất khẩu mà chỉ dùng trong nội địa vì sản phẩm của công nghệ hoá khí là chạy điện trực tiếp, hoá lỏng là than bùn thì phải qua chế biến.

Vậy quan điểm của ông như thế nào, có nên khai thác bể than đồng bằng sông Hồng không khi có quá nhiều vấn đề đang đặt ra như thế?

Có được nguồn tài nguyên là quý, và nếu khai thác được thì về mặt Nhà nước, cộng đồng, nguời dân đều được hưởng lợi nhất định vì nó tạo ra nguồn năng lượng, tăng nguồn thu, sản phẩm hàng hóa, công ăn việc làm… Nhưng quan điểm của tôi là phải tính đến nhiều con đường.

Nếu trong lúc khó khăn và giới hạn về điều kiện kinh tế thì việc khai thác một phần than để bảo đảm nguồn năng lượng sử dụng cho quá trình phát triển là cần thiết nhưng giải quyết nguồn nhiên liệu chỉ bằng than cũng là bất đắc dĩ, là không ổn. Vì xét về mặt tài nguyên, sử dụng không có kế hoạch thì sẽ cạn kiệt. Ngoài ra còn vấn đề môi trường vì than tạo ra nhiều khí thải, gây ra biến đổi khí hậu, nên cần thiết phải tìm thêm con đường khác để giải quyết vấn đề năng lượng.

Do đó phải khai thác thử trong diện hẹp, làm từng bước và nhìn nhận thận trọng. Và cũng phải thấy được rằng, dù có khai thác lên thì lợi ích không thể thoả mãn vì chúng ta cũng chỉ vắt cạn kiệt tài nguyên để đưa vào sử dụng. Nên nếu khai thác cấp tập quá, ồ ạt quá, nhanh quá chắc chắn phải trả giá bằng môi trường. Nhưng để khai thác dù chỉ một phần trữ lượng than ở đồng bằng sông Hồng thì cũng nhất thiết phải giải quyết được mấy bài toán đã nêu trên.

Nhưng có ý kiến cho rằng, giữa lúa và than thì than mang lại hiệu quả kinh tế lớn hơn nhiều?

Ảnh minh hoạ
Ảnh minh hoạ

Đúng là nếu tính giá trị đất lúa so với than thì không là gì nhưng để ra được đất sản xuất lúa thì sự bồi đắp cấu thành mất hàng nghìn năm. Còn nếu phá hủy nó để khai thác than bằng mọi giá thì hàng nghìn năm sau cũng không thể khôi phục được. Khai thác than có thể cải thiện đời sống cho người dân vài ba chục năm nhưng sau đó thì sống dựa vào đâu? Người Việt Nam đông, đất trồng lúa không nhiều, lại đang có nguy cơ thu hẹp lại bởi nhiều dự án, trong khi nhu cầu lương thực trên thế giới ngày càng lớn. Do đó chúng ta phải biết quý đất trồng lúa .

Quản chặt xuất khẩu than

Theo dự tính, từ năm 2013, Việt Nam phải nhập khẩu than mới đủ cho tiêu dùng trong nước. Nhưng hiện tại chúng ta vẫn xuất khẩu than? Ông nghĩ sao về vấn đề này?

Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Có luồng ý kiến cho rằng, với các mỏ than đã mở, khai thác lên chưa dùng hết thì phải xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Nhưng tôi nghĩ là không nên khai thác một bước quá xa như thế, không nên xuất khẩu quá nhiều mà phải chủ động điều tiết nguồn than khai thác để xuất khẩu ít đi, còn nhu cầu trong nước bao nhiêu thì khai thác đến đó.

Quan điểm thứ hai là không nên xuất khẩu than nữa. Điều này cũng đúng vì trữ lượng than ở Quảng Ninh cũng đến lúc cạn kiệt. Mặt khác chúng ta đang bán than với giá rẻ, trong khi dự báo thời điểm nhập vào thì sẽ là giá cắt cổ. Do đó nhất thiết phải điều tiết nguồn than xuất khẩu.

Khai thác tài nguyên không phải là một phương pháp làm giàu tối ưu. Nhưng hình như chúng ta đang mắc ở chỗ này?

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia ở nhiều giai đoạn, nếu chỉ dựa vào tài nguyên do thiên nhiên ban tặng thì phát triển không bền vững và chất lượng cũng không cao, lại phải giải quyết nhiều vấn đề KT- XH kéo theo.

Tài nguyên ở Việt Nam thì phong phú thôi chứ không phải là nhiều. Cần khai thác tài nguyên nhưng dựa vào nó cũng chỉ mức độ thôi. Và tiết kiệm tài nguyên đang là xu hướng mà nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng.

Còn để phát triển đất nước thì người Việt Nam có truyền thống cần cù sáng tạo nên ta cần có cơ chế chính sách tạo điều kiện động lực cho người lao động phát huy năng lực. Chứ hiện tại, chúng ta vẫn nặng về khai thác tài nguyên nhiều hơn. Như trong đầu tư thì nặng đầu tư về vốn liếng, mà vốn thì nặng về ngân sách Nhà nước.

Trong phát triển các nguồn lực thì cũng nặng về nguồn lực tài nguyên nhiều hơn. Trong khi đó, nguồn lực con người rất cần chú trọng. Phát huy vai trò con người càng sớm thì càng tốt, càng tạo được nền móng vững chắc cho sự phát triển KT-XH.

Nhưng phải thay đổi tư duy này từ đâu?

Phải từ các nhà lãnh đạo quản lý. Các Tập đoàn kinh tế làm kinh doanh thì thường tính đến lợi nhuận mà ít chú ý đến lợi ích môi trường, đến sự cân bằng trong phát triển KT- XH. Nên các nhà lãnh đạo quản lý Nhà nước phải tính như thế nào, không thể các Tập đoàn trình như thế nào, lãnh đạo nhất trí như thế. Ở đây cũng cần phát huy ý kiến phản biện của xã hội, từ các cấp lãnh đạo, các nhà khoa học đến người dân, doanh nghiệp…

Trách nhiệm giải trình

Nếu đề án được đưa ra QH thì QH sẽ là “chốt chặn” cuối cùng quyết định việc có thực hiện hay không?

QH hiện nay đang có nhiều quyết định tốt. Nhưng vấn đề là phải cung cấp cho đại biểu QH những thông tin, ý kiến xác đáng. Đặc biệt, khi bấm nút thông qua thì chúng ta lấy biểu quyết số đông nhưng khi tiếp thu giải trình thì cần phải cân nhắc vì có thể số ít ý kiến lại có căn cứ và là căn cứ rất tốt. Nên có rất nhiều yếu tố để đi đến quyết định đúng đắn.

Vậy, trách nhiệm của Chính phủ trong việc giải trình như thế nào?

Chính phủ phải giải trình một cách đầy đủ thì các ĐBQH mới có đủ điều kiện cân nhắc bấm nút. Tránh tình trạng tài liệu thì đưa ít, thời gian thì gấp gáp, đại biểu không có đủ điều kiện nghiên cứu, và nếu thời gian thảo luận tại QH lại ngắn nữa thì chúng ta dễ đi đến kết luận hình thức.

Tuy vậy, các đại biểu QH cũng phải thực sự quan tâm đến vấn đề này để có trách nhiệm với quyết định của mình, với sự phát triển của đất nước. Trên cơ sở phát huy thảo luận bàn bạc kỹ càng của QH cùng với việc có nhiều thời gian trao đổi ý kiến, thống nhất ý kiến thì tôi tin QH sẽ làm đúng chức năng đại diện của nhân dân và cơ quan quyền lực.

Xin cảm ơn ông!

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.