Lương duyên giữa danh tướng nhà Trần với công chúa nhà Lý
Trong cuộc phong thưởng này, quan ngự sử Lê Tần nhận được nhiều ân huệ lớn nhất: nhà vua trân trọng ghi công ông với câu nói chân tình: “Trẫm không có khanh thì đâu có ngày nay…”. Vua ban tên mới cho Lê Tần là Lê Phú Trần (Người họ Lê trợ giúp nhà Trần), lại cho Lê Tần làm ngự sử đại phu, chức quan đứng hàng thứ năm ở Ngự Sử Đài (cơ quan coi giữ phong hoá, pháp độ và can gián nhà vua) với tước Bảo Văn hầu; đặc biệt hơn nhà vua còn gả công chúa Chiêu Thánh cho Lê Tần… Vậy Lê Tần đã có công trạng ra sao mà được vua Trần ưu ái đến vậy?
Sử cũ cho biết, Lê Tần là người Ái Châu (Thanh Hoá ngày nay), thuộc dòng dõi vua Lê Đại Hành. Năm 1250 (nhà Trần đã thiết lập được 24 năm), ông được chọn làm quan ngự sử trung tướng, tri tam ty viện sự. Trong trận đánh đầu tiên trực diện với giặc Mông Cổ ở Bình Lệ Nguyên (thuộc Bình Xuyên, Vĩnh Phúc), Lê Tần là tướng theo sát vua Trần Thái Tông. Ông “hiên ngang cưỡi ngựa ra vào trận đánh, sắc mặt bình thản, không một nét bối rối lo sợ” giữa mấy chục ngàn quân giặc vung đao, phóng tên, hò hét man rợ…
Khi đội quân thiện xạ Mông Cổ bắn vào những chỗ hiểm, dồn đàn voi chiến Đại Việt chạy lồng trở lại khiến cho trận địa bên ta nao núng thì có nhiều người khuyên vua Trần đứng trên chòi cao chỉ huy tướng sĩ quyết một trận sống mái với giặc. Riêng Lê Tần đã tỉnh táo khuyên can nhà vua: Giặc đang mạnh, bệ hạ không thể như người đánh cờ, dốc hết túi, liều một trận được, thua với chúng: Nay tạm lánh đi để lo kế lâu dài… Vua nghe lời, cho quân lui xuống bến sông. Rất may, khi quân ta đã lên hết thuyền thì cũng là lúc đạo quân giặc đánh tập hậu kéo đến, mưu cướp thuyền chặn đường rút của quân ta. Thấy thuyền chưa xa bờ, bọn cung thủ Mông Cổ hò hét bắn tên như mưa. Lê Tấn vội bật ván thuyền giơ lên làm mộc, che chắn cho nhà vua được an toàn.
Trước thế mạnh của giặc, vua Trần tiếp tục lui quân, ngài quyết định cho triều đình và toàn thể quân, dân rời bỏ kinh thành Thăng Long để bảo toàn lực lượng.
Sử cũ cũng cho biết, tại bộ chỉ huy của nhà Trần đóng trên sông Thiên Mạc (đoạn sông Hồng chảy qua Khoái Châu), nhà vua đã đi thuyền tới gặp em trai là Thái uý Trần Nhật Hiệu, người đang cai quản đạo quân Tinh cương tinh nhuệ nhất của nhà Trần, để hỏi kế sách đánh giặc. Nhưng lúc này Nhật Hiệu còn đang hoảng sợ, ngồi trên thuyền, không đứng được dậy cũng không nói được nên lời mà chỉ dùng ngón tay chấm nước viết lên mạn thuyền hai chữ “Nhập Tống”, khuyên vua, quan chạy sang nhà Tống bên Trung Quốc để ẩn náu. Nhà vua tới gặp Thái sư Trần Thủ Độ và đã được lão đại công thần trấn an: “Đầu thần chưa rơi xin bệ hạ đừng lo!”. Và khi ấy Lê Tần “Thường lui tới thuyền vua, bàn những việc cơ mật mà ít người biết được điều đó” (Theo Đại Việt sử ký toàn thư). Cũng cần biết thêm, khi ấy Trần Quốc Tuấn (cha là Trần Liễu, anh ruột của nhà vua) đã 30 tuổi, chưa lộ tài năng và cũng chỉ được cai quản một đạo quân nhỏ, coi giữ mạn Đông Bắc và ven biển đồng bằng.
Việc cơ mật mà Lê Tần thường lui tới bàn bạc với nhà vua sử sách không ghi chép, nhưng qua những hoạt động quân sự giành thắng lợi sau đấy của quân dân nhà Trần thì có thể hình dung được những nội dung chủ yếu của phương lược đánh bại quân Mông Cổ của vua Trần Thái Tông và Lê Tần; đó là gìn giữ và tạo lập được bộ chỉ huy và các đạo quân chủ lực rất cơ động linh hoạt mà chủ yếu là dựa vào những đội thuỷ binh hoạt động trên sông, trên biển để né tránh được sức mạnh hung hãn của quân địch, đồng thời biết tìm ra và biết đánh phá có hiệu quả các chỗ yếu, các điểm yếu của quân giặc; đó là biết huy động và phối hợp các lực lượng từ quân sĩ, dân binh đến mọi người dân cùng quyết tâm đánh giặc; đó là việc triệt đường lương thảo của giặc cũng như hạn chế tối đa việc quân sĩ, dân chúng buộc phải theo giặc, phá vỡ mưu đồ lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của bọn xâm lược.
Quả như sự tính toán của bộ chỉ huy kháng chiến nhà Trần, chỉ chưa tới mười ngày mà gần ba vạn quân Mông Cổ đóng trong kinh thành Thăng Long trống rỗng đã hoang mang cực độ: Chúng càng hoảng sợ khi các nhóm quân kéo ra ngoài thành để kiếm ăn đều bị dân binh, dân làng người Việt đánh cho tơi tả. Chớp thời cơ, ngày 24 tháng Chạp năm Định Tỵ (29 – 1 – 1258), vua Trần Thái Tông cùng hoàng thái tử Trần Hoảng (Trần Thánh Tông sau này) đích thân chỉ huy đoàn lâu thuyền (chiến thuyền hai tầng) đánh tan quân giặc ở bến Đông Bộ Đầu (gần phố Hàng Than, Hà Nội bây giờ). Và ngay tiếp đó, các cánh quân khác của ta cũng đột nhập vào kinh thành, quét sạch quân giặc ra khỏi Thăng Long, đuổi chúng chạy liền một mạch về phía Vân Nam Trung Quốc.
Trong cuộc bành trướng xâm lược với quy mô lớn, với sự hung bạo mãnh liệt ở phương Đông thì cuộc chiến với Đại Việt đầu năm 1258 của quân Mông Cổ lần đầu tiên bị đánh bại. Chiến công vĩ đại này có công lớn của Lê Tần.
Cũng chính vì nhận thấy Lê Tần là người đầy đủ dũng khí, tài trí và cả đức độ nên các vua Trần là đã tin tưởng và tiếp tục giao cho ông những trọng trách lớn hơn. Ngay sau chiến tranh, vua Trần đã cử Lê Tần làm chánh sứ cùng với Chu Bác Lãm đi sứ sang Mông Cổ. Tháng 6 năm sau (Kỷ Mùi – 1259), Lê Tần lại được cử làm thuỷ quân đại tướng quân để lo việc củng cố tăng cường đạo quân trên sông nước và xây dựng các căn cứ thuỷ quân của Đại Việt. Mười lăm năm sau (Giáp Tuất – 1274), Lê Tần lại được cử là Thiếu sư kiêm Trừ cung giáp thụ tức là làm thầy dạy cho thái tử Trần Khâm (tức vua Trần Nhân Tông sau này).
Trong các cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên tiếp theo, sử liệu không thấy ghi chép về Lê Tần; phải chăng ông đã mất trước cuộc kháng chiến lần thứ hai.
Trở lại cuộc phong thưởng mùa xuân năm 1258, phần thưởng đặc biệt của vua Trần gả công chúa Chiêu Thánh cho Lê Tần. Vậy công chúa Chiêu Thánh là ai? Chiêu Thánh là con gái thứ hai của vua cuối cùng triều Lý. Lý Sảm tức Lý Huệ Tông chỉ có hai người con gái do bà Trần Thị Dung sinh ra (bà Trần Thị Dung là em gái Trần Thừa, là cô ruột của Trần Cảnh). Con gái lớn tên Oanh, tức công chúa Thuận Thiên được vua Lý gả cho Trần Liễu (anh Trần Cảnh); con gái thứ hai là công chúa Chiêu Thánh tự là Phật Kim, năm lên tám tuổi được chọn làm thái tử. Tháng mười năm Giáp Thân (1224), vua Lý Huệ Tông đau yếu và hoang mang bởi sự o ép của thế lực họ Trần trong triều nên nhường ngôi vua cho Chiêu Thánh. Lý Chiêu Thánh làm vua với vương hiệu Chiêu Hoàng.
Với mưu đồ giành ngôi nhà Lý cho họ Trần. Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ (chú họ Trần Cảnh) bày trò hoàng đế cưới chồng và sau đó, tháng 12 năm Mậu Dần (1226) nữ hoàng Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (cùng chín tuổi), để trở thành hoàng hậu Chiêu Thánh.
Hơn mười năm chung sống với Trần Thái Tông (1226 – 1237), hoàng hậu không sinh nở được người con nào, đây là mối lo lớn cho triều đình nhà Trần. Trước tình hình đó, Trần Thủ Độ cùng với vợ là Trần Thị Dung (vốn trước đó là hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông cũng là mẹ của hai chị em Thuận Thiên, Chiêu Thánh), buộc Trần Liễu phải nhường vợ mình là Thuận Thiên (đang có mang, sau sinh Trần Khang) cho vua em là Trần Cảnh. Như vậy là từ tháng Giêng năm Đinh Dậu (1237), Thuận Thiên đã trở thành hoàng hậu của vua Trần và hoàng hậu Chiêu Thánh bị dáng xuống làm công chúa Chiêu Thánh.
Lại trải qua 21 năm đằng đẵng đơn côi, cho mãi tới mùa xuân năm Mậu Ngọ (2 – 1258), ở tuổi 40. Chiêu Thánh trở thành phần thưởng: về với Lê Tần. Cuộc đời công chúa Chiêu Hoàng quá nhiều gian truân, cay đắng bà đã từng phải chứng kiến cảnh vua cha bị hãm hại, bà đã bị truất khỏi ngôi vua, bị truất danh vị hoàng hậu bị bỏ quên trong cung cấm quá lâu và khi không còn trẻ nữa đã bị coi như một món đồ làm phần thưởng… Thế nhưng có sự đền bù, nâng đỡ của trời, phật cho người hiền, Chiêu Thánh được chung sống với người tài đức, bà như tươi trẻ lại và sinh cho Lê Tần hai người con, một trai, một gái. Người con trai được sử ghi là Thượng vị hầu Lê Tông mà gần đây các nhà sử học đã xác định chính là Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng, vị dũng tướng đã nổi danh với tiếng thét: “Ta thà là quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” trước sự đe doạ và dụ hàng của quân xâm lược (trong cuộc chống Mông Nguyên lần 2).
Người đời đến nay vẫn còn những chê bai về đạo đức vợ chồng của vua Trần Thái Tông, cho ông là người quá vô tình và nhẫn tâm đem công chúa Chiêu Thánh, người vợ đầu tiên đã yêu thương mình là đồ thưởng, gả cho người khác. Tuy nhiên cần phải thấy rằng, phong tục thời đó khác xa bây giờ, sự đan xen các tập tục trong đó có cả những tập tục ở thời sơ khai khi đó vẫn còn là phổ biến, vả lại những hành xử nghiệt ngã, đặc biệt là khi nhà vua còn trẻ đều do Trần Thủ Độ quyết định với sự cực đoan quyết liệt nhằm bảo vệ ngôi báu lâu bền cho dòng họ Trần. Nếu nhìn nhận một cách thực tế hơn, nhân đạo hơn thì việc “gả” Chiêu Thánh cho Lê Tần lại chính là việc làm nhân nghĩa của vua Trần Cảnh nhằm giải thoát sự tù túng cho công chúa và gửi gấm bà vào tay một người đàn ông đáng tin cậy.