Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 06/09/2006 00:03 (GMT+7)

Luật phá sản năm 2004 - Một số điểm mới cần lưu ý

Thực tế số lượng doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản lớn hơn rất nhiều lần con số này, nhưng không thể tuyên bố phá sản được đối với các doanh nghiệp đó do nhiều lý do, nhiều vấn đề liên quan đến phá sản chưa được Luật Phá sản doanh nghiệp quy định. Nhiều quy định của Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 không phù hợp với thực tế của nền kinh tế thị trường. Nguyên nhân chính là do luật này được xây dựng từ đầu những năm 90 - những năm đầu của tiến trình đổi mới, hiểu biết của chúng ta về nền kinh tế thị trường còn ít, điều kiện tham khảo các quy định của pháp luật nước ngoài về phá sản còn bị hạn chế, chúng ta còn thiếu kinh nghiệm cho nên nhiều vấn đề chưa lường trước được để quy định trong Luật Phá sản doanh nghiệp. Từ thực tiễn đó, để khắc phục những khuyết điểm của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, ngày 15 tháng 6 năm 2004 vừa qua Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật Phá sản. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 10 năm 2004 và thay thế cho Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Chúng tôi xin nêu ra một số điểm mới cần chú ý của Luật Phá sản năm 2004 như sau:

1. Phạm vi điều chỉnh

Trong một văn bản luật thì việc quy định phạm vi điều chỉnh là cần thiết, bởi vì căn cứ vào đó thì mới có thể biết được văn bản luật điều chỉnh những vấn đề gì. Trong khi đó, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 chưa quy định cụ thể về phạm vi điều chỉnh. Vì vậy, Luật Phá sản năm 2004 đã bổ sung quy định mới về phạm vi điều chỉnh tại Điều 1: “Luật này quy định điều kiện và việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; xác định nghĩa vụ về tài sản và các biện pháp bảo toàn tài sản trong thủ tục phá sản: điều kiện, thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, thủ tục thanh lý tài sản và tuyên bố phá sản; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu tuyên bố phá sản và của ngời tham gia giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản”.

2. Đối tượng áp dụng

Luật Phá sản năm 2004 tại khoản 1 Điều 2 đã quy định “Luật này áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gọi chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật”.Như vậy, so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì Luật Phá sản năm 2004 đã bổ sung đối tượng áp dụng mới là hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Bởi vì quy định về đối tượng áp dụng tại Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 chưa đầy đủ vì trong điều kiện kinh tế, thị trường, tất cả các chủ thể tham gia kinh doanh đều có quan hệ kinh tế, thương mại, có quyền bình đẳng ngang nhau với các chủ thể kinh doanh khác và đều có thể bị lâm vào tình trạng phá sản. Hợp tác xã là một hình thức hợp tác rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Do đó, vấn đề đặt ra là khi hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì quyền lợi của các chủ nợ của hợp tác xã đó sẽ được đảm bảo và giải quyết như thế nào? Mặt khác, Luật Hợp tác xã vừa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XI.

Từ đối tượng áp dụng như trên, nên tên gọi “Luật Phá sản doanh nghiệp” được đổi lại thành “Luật Phá sản” vì luật này áp dụng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn áp dụng đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

3. Căn cứ xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản

Đây là một trong những điều khoản quan trọng, có tính quyết định và chi phối nhiều nội dung của Luật Phá sản. Việc phát hiện sớm tình trạng phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã có ý nghĩa rất quan trọng, nếu xác định tình trạng này muộn sẽ có rất ít cơ hội thành công, cho dù đó là thủ tục thanh toán hay thủ tục phục hồi. Vì vậy, tại Điều 3 Luật Phá sản năm 2004 quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì bị coi là lâm vào tình trạng phá sản”.

Quy định này đã khắc phục tồn tại của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Bởi vì, tại Điều 2 Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 quy định: doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Và tại Điều 3 Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp hướng dẫn: Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản nói tại Điều 2 Luật Phá sản doanh nghiệp, nếu kinh doanh bị thua lỗ trong hai năm liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người lao động theo thoả ước lao động và hợp đồng lao động trong ba tháng liên tiếp. Thực tế cho thấy việc quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như vậy là quá muộn. vì khi đã thua lỗ không thanh toán được nợ đến hạn sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết, thì lúc đó doanh nghiệp hầu như không còn tài sản gì, thậm chí còn không đủ để trang trải chi phí phá sản.

4. Thủ tục phá sản

Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 chưa xác định rõ thủ tục phá sản, vì vậy Luật phá sản (tại Điều 5) đã có quy định mới về thủ tục phá sản, bao gồm: nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản; phục hồi hoạt động kinh doanh; thanh lý tài sản, các khoản nợ và tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã đã bị phá sản.

5. Đối tượng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Tại Điều 7, 8 Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 quy định về đối tượng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản gồm chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần, đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn.

Luật Phá sản năm 2004 tại Chương II đã quy định thêm một số đối tượng như: người lao động có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp khi doanh nghiệp không trả được lương và các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó (để đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu); các cổ đông và thành viên công ty hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp (để phù hợp với quy định về quyền của các cổ đông và quyền của thành viên hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp).

6. Thành phần Tổ quản lý, thanh lý tài sản

Theo quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì thành phần của hai tổ này bao gồm ít nhất là 7 người từ những cơ quan đơn vị khác nhau. Qua thực tiễn áp dụng Luật Phá sản doanh nghiệp trong thời gian qua cho thấy với cơ cấu và thành phần như vậy thì hoạt động của hai tồ này ít hiệu quả và chi phí lớn. Vì vậy, Luật Phá sản năm 2004 quy định thành phần của hai tổ này chỉ gồm 4 người, trong trường hợp cần thiết mới có thêm những người khác tham gia (Điều 9).

7. Cấm đảm nhiệm chức vụ sau khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản

Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 quy định về vấn đề này tại Điều 50 chưa đầy đủ, còn bỏ qua nhiều đối tượng. Vì vậy, Luật Phá sản đã quy định khá chi tiết và cụ thể về các đối tượng bị cấm đảm nhiệm chức vụ sau khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản tại Điều 94 như sau:

“1. Người giữ chức vụ Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị của công ty, tổng công ty 100% vốn nhà nước bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào, kể từ ngày công ty, tổng công ty nhà nước bị tuyên bố phá sản.

Người được giao đại diện phần vốn góp của nhà nước ở doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các chức vụ quản lý ở bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn của Nhà nước.

2. Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của Công ty hợp danh. Giám đốc (Tổng giám đốc), Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp, Chủ nhiệm, các thành viên Ban quản trị hợp tác xã bị tuyên bố phá sản không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn ba năm, kể từ ngày doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản”.

Ngoài ra, Luật Phá sản năm 2004 đã bổ sung các quy định mới về tạm ứng chi phí phá sản; những trường hợp trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; thủ tục chuyển việc giải quyết phá sản cho Toà án có thẩm quyền và giải quyết tranh chấp về thẩm quyền (Điều 21, 24 và 26); tạm đình chỉ giải quyết yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thực hiện nghĩa vụ về tài sản (Điều 27); xác định nghĩa vụ về tài sản (Điều 33); hoàn trả lại tài sản cho nhà nước (Điều 36); cấm đòi lại tài sản (Điều 41); Giám sát thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (Điều 73); quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản (Điều 86)... cùng với nhiều quy định mới khác. Chính những thay đổi này giúp cho Luật Phá sản năm 2004 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã đang trong tình trạng kinh doanh khó khăn thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thương trường một cách trật tự; thúc đẩy sự lưu thông vốn trong nền kinh tế thị trường, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và đóng vai trò là một trong những công cụ quan trọng để thu hồi nợ; góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hiệu quả, đảm bảo trật tự, kỷ cương xã hội và phù hợp với luật pháp quốc tế trong quá trình hội nhập.

Nguồn: Pháp lý, số 10, 2004

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.