Lịch sử kinh rạch ở Sài Gòn - Chợ Lớn
Kinh rạch ở Chợ Lớn
Trước hết, phải kể đến kinh rạch ở Chợ Lớn, vì vùng này dược đào kinh sớm nhất do nằm ở vị trí giao thương với miền Tây.
Năm 1772, đào kinh Ruột Ngựa. Trước đó từ cửa sông Rạch Cát về đến rạch Lò Gốm chỉ có con rạch nhỏ nước đọng, thuyền bè đi lại không được. Mùa thu năm 1772, Đốc chiến Nguyễn Cửu Đàm (con trai của Chánh thống Nguyễn Cửu Vân) cho đào thành kinh thẳng tắp như ruột Ngựa, nên gọi là kinh Ruột Ngựa (chữ Hán gọi là Mã Trường Giang) (2). Kinh Ruột Ngựa nối kinh Tàu Hủ ăn ra sông Rạch Cát, dài gần 3 km. Từ đó, có thể rẽ trái đi Cần Đước, Cần Giuộc; Rẽ phải đi Chợ Đệm, Bến Lức. Kinh Ruột Ngựa tuy ngắn nhưng giữ vai trò cực kỳ quan trọng, là kinh đào đầu tiên nối kinh Tàu Hủ và vùng Chợ Lớn với vùng đất phía Tây.
Kế đến là việc đào kinh Phố Xếp (3). Khi vừa từ cù lao Phố lánh nạn Tây Sơn về Chợ Lớn (năm 1778), người Hoa có nhu cầu mở thêm phố chợ nên đào thêm kinh Phố Xếp, nối rạch Tàu Hủ cắt ngang rạch Chợ Lớn, lên hướng Bắc đến chợ Rẫy (nay là Bệnh Viện Chợ Rẫy). Chợ này nằm trên gò đất cao, xung quanh đó người Hoa trồng Rau Cải để bán. Lúc này hoạt động buôn bán ở Chợ Lớn còn rất yếu, chỉ có chợ Rẫy là phát triển, nên Trương Vĩnh Kí khẳng đinh: “Thực sự, Chợ Lớn xưa nằm trên nền đất chợ Rầy bây giờ” (4).
Kinh Phố Xếp giúp vận chuyển rau cải ra rạch Tàu Hủ và đi khắp nơi. Kinh này tồn tại mãi đến năm 1925 mới bị lấp, thành đại lộ Tổng đốc Phương, nay là đường Châu Văn Liêm ở quận 5.
Đến năm 1819, kinh Ruột Ngựa đã bị cạn lấp, ghe xuồng đi lại khó khăn nên mùa xuân năm này, phó tổng trấn Gia Định thành là Huỳnh Công Lý vâng lệnh đốc thúc hơn 10.000 dân phu trong trấn Viên An (5)đào kinh mới từ đầu rạch Lò Gốm đến cuối rạch Ruột Ngựa, nối kinh Tàu Hủ thông với sông Rạch Cát. Kinh đào xong rộng khoảng 40 m, sâu khoảng 4 m, dài khoảng 5 km, dược vua Gia Long đặt tên lần Thông Hà. Nhờ đó mà ghe thuyền đi lại được nhanh chóng, dân thương hồ “bơi chèo hát xướng ngày đêm nối nhau, thực là nơi đô hội trên bến dưới thuyền, người ta đều khen là thuận lợi” (6).
Đến khi Pháp chiếm Nam Bộ, tuy làm chủ được tình thế nhưng kẻ xâm lược luôn phải đối phó với nhiều đợt tấn công của phía quân ta từ Đồng Tháp Mười. Vì thế nên chúng cho đào kinh Vành Đai (Canal de Ceinture) hình vòng cung bao bọc phía bắc của Sài Gòn - Chợ Lớn, còn gọi là kinh Vòng Thành hay kinh Bao Ngạn (tức “bờ bao”). Kinh này dài 7 km, rộng 10 m, sâu 3 m. Đào năm 1875, nối rạch Thị Nghè và rạch Hoa Kiều (7). Nay (8)không còn tác dụng gì, bị đóng bùn. Rạch Thị Nghè mà nó chảy vào, thuyền bè không đi lại được khi triều rút quá cầu Phú Mỹ (9). Trong vùng Phú Thọ, lòng kinh bị đắp cao hơn mực nước triều” (10).
Theo dự án, kinh được xuất phát từ ngã ba giữa rạch Chợ Lớn và rạch Lò Gốm đến gò Cây Mai (nay là dường Nguyễn Thị Nhỏ, Quận 11), vòng qua Phú Thọ, đến Hoà Hưng rồi đồ ra rạch Thị Nghè ở vị trí nay là cầu Công Lý. Bờ kinh là đường bộ cho lính canh phòng, dưới kinh là tàu chiến cỡ nhỏ di chuyển. Thế nhưng, do dân phu đấu tranh và nghĩa quân đánh phá liên miên nên công trình dang dở dù đã đào được thành đường kinh, sau đó được lấp dần.
Bước sang đầu thế kỷ XX, nhờ sự giúp đỡ của chính quyền thuộc địa, nền thương mại của Hoa kiều phát triển mạnh, mà chủ yếu là việc thu mua lúa từ miền Tây chở về Chợ Lớn xay thành gạo xuất khẩu. Do đó, kinh Tàu Hủ đã tỏ ra quá tải trước lượng ghe thuyền tấp nập, nên từ năm 1906 đến 1908, Pháp cho đào một con kinh mới từ sông Sài Gòn đi về phía Tây, ăn đến sông Rạch Cát, dài khoảng 13 km. Đoạn từ sông Sài Gòn đến Chợ Quán khoảng 4 km có tên là Kinh Tẽ (vì được xem như là nhánh tẽ của kinh Bến Nghé), nhưng sau đó bị đọc và viết nhầm là kinh Tẻ; Đoạn còn lại có tên là kinh Đôi (Pháp gọi là Canal de Doublement) vì gần như song song với kinh Tàu Hủ (11). Tuyến kinh mới này nhờ được thi công bằng cơ giới nên vừa rộng, vừa thẳng, làm tăng thêm đáng kể khả năng thông thương giữa Sài Gòn - Chợ Lớn với miền Tây.
Hoạt động thương mại ở Chợ Lớn phát triển kéo theo nhu cầu mở rộng đô thị. Chính điều này dẫn đến việc lấp rạch Chợ Lớn. Con rạch này vốn đã có từ lâu đời, đến năm 1925, được lấp thành đường giao thông. Đoạn gần rạch Lò Gốm thành đường Trương Tấn Bửu (nay là đường Lê Quang Sung), đoạn giữa vốn là những ụ chuyên đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, thành bến xe Chợ Lớn, đoạn giáp rạch Tàu Hủ thành đường Khổng Tử (nay là đường Hải Thượng Lãn Ông). Năm 1930, trên bờ rạch Chợ Lớn cũ, chợ Bình Tây (tức Chợ Lớn mới) do Quách Đàm (một người Hoa) xây dựng khánh thành, hoạt động mua bán càng thêm sầm uất nên ít ai còn nhớ con rạch này.
Kinh rạch ở Sài Gòn
Kinh rạch ở Sài Gòn chỉ được đào lấp kể từ khi Pháp xâm lược nước ta và chọn Sài Gòn làm trung tâm hành chính, mở mang phố chợ. Trước đó, hoạt động mua bán chỉ phát triển ở Chợ Lớn, do người Hoa khuếch trương.
Năm 1860, việc lấp kinh rạch đã gây cuộc tranh cãi lớn trong Hội đồng thành phố, giữa quan điểm đấu tranh cho vệ sinh công cộng coi kinh rạch như những ổ nhiễm khuẩn và quan điểm của nhóm thương nhân coi kinh rạch như huyết mạch để vận chuyển hàng hoá (12). Chính vì phải điều đình giữa hai quan điểm đó mà việc đào lấp kinh rạch ở Sài Gòn diễn ra khá chậm chạp.
Năm 1862, Đô đốc Bonard thực hiện phân lô vùng Bến Nghé thành nhiều khoảnh và bán với giá rẻ để thu hút dân cư. Năm 1867, kinh Chợ Vải được đào, từ sông Sài Gòn, gần đầu rạch Cầu Sấu (nay là đường Hàm Nghi) ăn vô đến giếng nước cùng tên rồi rẽ phải ở chỗ nay là nhà hát Thành Phố, ra rạch Thị Nghè bằng kinh Coffin. Trên bờ kinh này có ngôi chợ chuyên bán vải vóc nên có tên là Chợ Vải. Năm 1911, chợ này được rời về vị trí mới, chỗ vùng ao đầm vừa được lấp lại (13), tức là chợ Bến Thành hôm nay. Năm 1884, kinh được lấp phần ngọn từ vị trí nay là đường Lê Lợi đến đường Mạc Thị Bưởi, phần còn lại được cẩn Đá hai bên, cách khoảng có xây bậc thang để vận chuyển hàng hoá lên xuống. Đến năm 1892, đoạn còn lại cũng được lấp thành đường phố, gọi là đường Charner, dân gian gọi là đường Kinh Lấp, nay là đường Nguyễn Huệ.
Kinh Coffin nối rạch Cầu Sấu, kinh Chợ Vải và kinh Cây Cám với nhau, do đại tá Coffin chỉ huy đào, đến năm 1892 cũng bị lấp cùng với hàng loạt kinh rạch nhỏ khác. Kinh Coffin trở thành đường Bonard, nay là đường Lê Lợi, Rạch Cây Tám trở thành đường Espagne (tức Tây Ban Nha), nay là đường Lê Thánh Tôn. Rạch Cầu Sấu trở thành đại lộ De la Somme, sau đổi thành Duperré, nay là đường Hàm Nghi. Rạch Cầu Ông Lãnh trở thành đường Kitchener (1907), sau đó đổi thành Abat - toir (lò sát sinh, tức xóm Lò Heo), nay là đường Nguyễn Thái Học. Rạch Cầu Kho được lấp thành đường Cầu Kho, sau đó đổi là đường Phát Diệm, nay là đường Trần Xuân Xu. Ngoài ra, còn hàng loạt kinh rạch khác cũng được lấp dần, tự phát do nhu cầu đất ở của người dân, như rạch Cầu Muối, rạch Bà Tiềm, rạch Bà Đô (tức rạch Xóm Chiều), rạch Cầu Hộc, rạch Xóm Dầu, rạch Bà Tịnh… Đô thị phát triển đến đâu thì kinh rạch bị lấp tới đó.
Trong khi đó con sông Sài Gòn lúc này là tuyến vận tải chính nhưng lại quá cong quẹo nên vận chuyển tốn kém nhiều công sức và tiền của. Vì vậy, nhà cầm quyền Pháp quyết định cho đào kinh Thanh Đa “dài 1 km, rộng 40 m, sâu 6 m. Đào từ 1897 đến 1898. Kinh này vừa mới được mở cửa ra cho thuyền bè qua lại. Nó cắt vòng thắt từ Bình Lợi đến An Phú và rút ngắn được 12 km theo dòng chảy của sông Sài Gòn” (15).
Kinh rạch ở phía Nam rạch Bến Nghé
![]() |
Cầu trên kinh Bonard |
Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là năm 2005, người ta đã lấp đoạn đầu của rạch Bến Nghé, phần tiếp giáp với sông Sài Gòn để thi công xây dựng đường hầm Thủ Thiêm (hầm ngầm xuyên qua lòng sông Sài Gòn, sang quận 2) và đại lộ Đông - Tây dọc theo rạch Bến Nghé, đi về các tỉnh miền Tây. Theo dự án thì sau khi thi công xong đường hầm, sẽ khai thông rạch Bến Nhé trở lại đẻ bảo lưu cảnh quan sông nước vốn có của vùng đất này. Do đó, toàn bộ chiều dài rạch Bến Nghé đã được giải toả và đang nạo vét, xây bờ kè để đảm bảo dòng chảy thông thoáng trong tương lai.
Điểm qua lịch sử kinh rạch ở Sài Gòn - Chợ Lớn, có thể thấy kinh rạch chủ yếu bị tác động bởi quá trình đô thị hoá (dù đào hay lấp) mà động lực của nó chính là kinh tế. Ban đầu, khi giao thông trên bộ chưa phát triển thì người ta tận dụng và đào kinh để giao thương. Đến khi phương tiện giao thông trên bộ phát triển thì kinh rạch lại được lấp đi để nhường chổ cho đường sá và nhà cửa, công trình. Bởi vậy mà phần lớn những con đường ở Sài Gòn - Chợ Lớn hiện nay trước kia chính là kinh rạch. Và đó cũng là khu vực có trình độ đô thị hoá cao, đặc biệt là luôn có chợ lớn, buôn bán tấp nập.
Tuy nhiên, quá trình lấp kinh rạch một mặt giúp cho nền đất thành phố thêm cao ráo nhất thời, một mặt lại tiềm ẩn nguy cơ ngập úng không còn xa mấy. Nguyên nhân là vì các kinh rạch xưa luôn được phân bố theo địa hình tự nhiên và thuận lợi cho dòng chảy; nay bị lấp đi, thay bằng hệ thống cống hộp vừa nhỏ vừa rễ bị tắc nghẽn, khiến nước không thoát kịp ra sông và dẫn đến ngập cục bộ. Mặt khác, do kinh rạch bị lấp quá nhiều nên mỗi khi triều cường dâng lên, dòng nước bị chặn lại nên cũng gây ngập cục bộ. Nạn ngập úng này diễn ra ở hầu hết các quận huyện, kể cả nội thành, với độ sâu từ 0,3 - 1 m, nhưng nặng nề nhất là ở quận 8 và quận Bình Thạnh. Điều này cộng với nạn khai thác nước ngầm trái phép khiến nền đất ở nội thành bị lún đều đặn mỗi năm đến vài cm. Đó chính là sự phản ứng của tự nhiên khi con người đã làm trái với nó. Và cứ theo đà này thì, nếu con người không khai thông dòng chảy, Sài Gòn - Chợ Lớn, chắc chắn sẽ quay trở lại diện mạo của mấy trăm năm về trước: một khu đầm lầy.
Để khai thông hệ thống cống ngầm của thành phố thì trước hết phải giải quyết lượng rác thải khổng lồ ứ đọng trong lòng cống. Do là vùng trũng, lại nằm trong chế độ bán nhật triều nên khả năng cuốn trôi rác thải của kinh rạch Sài Gòn - Chợi Lớn là rất thấp. Bởi vì khi nước triều rút đi, rác rến chưa trôi theo được bao nhiêu thì lại bị triều dâng đẩy trở lại vị trí cũ. Chính vì vậy mà ngay từ năm 1862, trong dự án “Sài Gòn - thành phố 500.000 dân” Coffin (Đại tá chỉ huy trưởng Công binh Pháp) đã có ý định đào một hồ lớn ở trung tâm thành phố. Từ đây chĩa đi bốn hướng bằng bốn đường cống đến sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé, kinh Vành Đai và rạch Thị Nghè. Nhờ các cửa ngăn tự động cho phép nước chảy một chiều, hồ này có thể điều chỉnh cho nước trong mỗi đường cống chỉ chảy theo một hướng, giúp rác thải trôi ra sông” (16). Tuy đó là dự án của thành phố Sài Gòn chỉ với 500.000 dân và cách đây gần 1,5 thế kỷ nhưng chứng tỏ nhà quy hoạch đã nhìn thấy được nguyên nhân số một của hiện tượng ngập úng này. Ngày nay, trong điều kiện hiện tại của thành phố thì ý tưởng trên càng nên được quan tâm nghiên cứu có cải tiến vì nó tỏ ra là biện pháp hiệu quả, ít tốn kém và rất khả thi.
Chú thích:
(1) Theo nội dung của quyết định số 873/QĐ ngày 29 - 3 - 2006 của Sở Giao thông Công chánh thành phố Hồ Chí Minh về việc phân cấp quản lý sông rạch thì, chỉ riêng khu Quản lý Giao thông Đô thị số 1 đã phải quản lý 93 tuyến với khoảng 142,62 km sông rạch ở vùng nội thành và vùng ven.
(2) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb Giáo dục, 1998, tr 35.
(3) Tên Phố Xếp có lẽ từ “phố xép” mà ra, chỉ phố nhỏ bên cạnh phố thị Chợ Lớn.
(4) Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận, tr 25.
(5) Phiên An là một trong năm trấn của vùng đất phía Nam, ngày nay là thành phố Hồ Chí Minh và một phần các tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình Phước.
(6) Triịnh Hoài Đức, Sđd, tr 34.
(7) Tức rạch Chợ Lớn - L. C. T.
(8) 1902 - L. C. T.
(9) Chỗ Thảo Cầm Viên - L. C. T.
(10) Sociétél des Etudes Indochinoise (Hội Nghiên cứu Đông Dương), Monographie de la province de Gia Dinh, Imprimerie L. Ménard, 1902, tr 40.
(11) Thạch Phương, Lê Trung Hoa chủ biên, Từ điển thành phố Sài Gòn Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, 2001, tr 325, 380.
(12) Theo Tổng Lãnh sự Pháp - Viện Trao đổi Văn hoá với Pháp - Công ty Air France . Regard sur le monde: Saigon1882 (Cái nhìn về thế giới: Saigon 1882), 11 - 2002, tr 14.
(13) Gọi là ao Bồ Rệt vì nằm trên đường Boresse (viên sĩ quan đứng đầu hạt Sài Gòn, được bổ nhiệm ngày 7 - 1 - 1863), nay là đường Yersin.
(14) Nguyên tên là Thạnh Đa, sau bị đọc và viết sai thành Thanh Đa.
(15) Monogarphie d la province d Gia Đinh, tr 40.
(16) Dẫn theo Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, 300 năm địa chính, Sở Văn hoá Thông tin Tp. HCM, 1998, tr 72.