Khủng hoảng nước ngọt và an ninh lương thực - Sức ép kép với an sinh xã hội Việt Nam trong thế kỷ 21
Bối cảnh và thực trạng
Nước là yếu tố không thể thiếu đối với sinh quyển, mà còn đặc biệt quan trọng với hệ động vật, trong đó có con người. Bản thân trọng lượng cơ thể người đã chứa tới 80% nước. Để có thể tồn tại được loài người cũng cần đến lương thực, thực phẩm. Điều đó cần đến rất nhiều nước, đặc biệt là nước ngọt chưa bị ô nhiễm.
Vào đầu thế kỷ 21, Việt Nam đã đối mặt với thách thức mất cân bằng về nước.
Trước hết là do nạn tàn phá rừng đầu nguồn, để lại một diện tích đồi núi trọc khá lớn ở thượng du, làm mất khả năng giữ nước và làm chậm dòng chảy là nguyên nhân sâu xa gây ra lũ lụt, sạt lở đất ngày càng tệ hại ở các vùng trung và hạ du, đông dân cư.
Trong quá trình công nghiệp hóa cần một lượng nước rất lớn để cung cấp cho công nghiệp và đời sống đô thị. Hầu hết các công nghệ sản xuất từ trồng trọt, chăn nuôi, chế biến lương thực, thực phẩm đến da giầy, dệt nhuộm, hóa chất tẩy rửa, tuyển khoáng, v.v…đều cần nước. Đời sống thường ngày của cư dân như vệ sinh, ăn uống, vui chơi giải trí cũng cần nhiều nước. Lượng nước sau khi sử dụng được thải ra môi trường lại là nước bẩn.
Hiện tượng những dòng sông chết như: sông Tô Lịch, Kim Ngưu ở nội thành Hà Nội hoặc lớn hơn như lưu vực sông Đáy, sông Nhuệ, sông Cầu, sông Đồng Nai, đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến các cộng đồng có mật độ dân cư cao ở những vùng hạ lưu.
Việt Nam có diện tích đất ngập nước gấp nhiều lần đất khô ráo. Theo công ước Ramsar có vùng đất ngập nước theo chu kì hàng năm như vùng Đồng Tháp Mười và các vùng ngập và thoát lũ ở đồng bằng sông Hồng; hoặc đất thường xuyên ngập nước như sông, hồ, đầm , ao; đất ngập mặn như rừng ngập mặn, thềm lục địa, ven hải đảo, đáy biển nông v.v..đây là không gian sinh tồn trong tương lai vì đó cũng là các vùng giàu tài nguyên, đa dạng sinh học, tiềm năng phát triển nhiều ngành kinh tế quan trọng về năng lượng, khoáng sản, giao thông, du lịch, môi trường, nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản, đảm bảo an ninh quốc phòng và lương thực thực phẩm cho hàng chục triệu con người Việt Nam. Nhưng đáng tiếc phân bố dân cư tại đây lại thưa thớt, hạ tầng cơ sở xã hội yếu kém, nhân lực thiếu hụt và khó khai thác vì điều kiện sống trước mắt còn nhiều khó khăn.
Các nước trong Tiểu vùng Mê kông như Campuchia, Lào, Thái Lan, Trung Quốc,đều có nhu cầu xây đập quy mô lớn ngăn nước ở thượng du hệ thống sông Hồng, sông Mê kông để làm thủy điện và tưới tiêu. Việc làm đó sẽ hạn chế và ảnh hưởng tới quy luật nước chảy về hạ lưu đồng bắng Việt Nam . Mùa khô đầu năm 2010 hạn hán đã đạt kỉ lục trong 100 năm qua ở đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và 50 năm qua tại đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Thậm chí có ngày mực nước sông Hồng chỉ còn 0,1 m ở Hà Nội và 0,4m ở sông Mê kông tại Lào. Thâm nhập mặn vào sâu hàng chục km đe dọa nghiêm trọng sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long .
Hiện tượng trái đất đang nóng lên, là mối hiểm họa cận kề về thiên tai, bão lũ, mực nước biển dâng. Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long có thể bị ngập mất 10% đất đai, ảnh hưởng tới 23% dân số vì mất đất ở và canh tác. Nếu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản chuyển thành một nước công nghiệp hiện đại, thì vẫn còn tới 40% dân số sống bằng nông, lâm, ngư nghiệp.
Mục tiêu và giải pháp
Một trong những giải pháp khả thi hiện nay là có thể tìm cách đắp những đập thời vụ ngắn hạn để giữ nước ngọt, kết hợp với nạo vét sông rạch, kênh, mương trữ nước. Có thể chế tạo những khối bê tông lưới thép vỏ mỏng có hình dạng và trọng lượng thích hợp để sẵn ở ven sông bãi bồi. Khi cần có thể nhanh chóng lắp ráp, liên kết dìm ở lòng sông, ngăn dòng chảy dâng nước trong thời gian ngắn khi các hồ thủy điện xả nước cứu hạn. Chỉ cần mực nước dâng cao thêm 0,5 đến 1 mét để có nước vào được trạm bơm. Như vậy vừa tiết kiệm được năng lượng chạy máy bơm và tránh lãng phí hàng tỉ mét khối nước để dành phát điện. Khi đủ nước dự trữ đập tạm được dỡ ngay và lưu lại cất giữ để dùng lại lần sau nhằm đảm bảo giao thông thủy lợi và thoát lũ. Như vậy dọc lưu vực sông sẽ hình thành các thảm nước ngọt bậc thang phục vụ tưới tiêu, ngăn mặn, xả phèn, chống cháy rừng ngập mặn v.v…
Hệ thống đê điều ở trung và hạ lưu, ruộng bậc thang ở miền núi phía bắc có từ cả ngàn năm trước . Bờ vùng, bờ thửa ở miền Bắc và đê bao ở miền Nam cho thấy mô hình cách làm thủy lợi kì công và thông minh của một dân tộc sống bằng nghề lúa nước. Ở kỉ nguyên công nghiệp hóa, dân số đông gấp bội, sản lượng xi măng có thừa, hiện tượng BĐKH toàn cầu là hiện hữu, chắc chắn chúng ta phải có cách làm mới phù hợp hơn.
Phát triển kinh tế nóng, không thể quên đi sự nghiệp đào tạo nhân lực, nhân tài có chiến lược đầu tư cho nghiên cứu thử nghiệm khoa học công nghệ lâu dài, bền vững đáp ứng những thử thách trong thế kỉ 21.








