Khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh: Định hình và tăng tốc
Nhân dịp này, Tạp chí Hoạt động khoa học đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Chánh Trực, Trưởng ban Quản lý Khu CNC TPHCM.
Xin ông cho biết về tình hình thu hút đầu tư của Khu CNC TPHCM?
Cho đến thời điểm này, Khu CNC TPHCM đã đi vào hoạt động được hơn 3 năm (2003-2006). Ngay từ đầu, Khu CNC đã xác định chiến lược phát triển trong giai đoạn “khởi nghiệp” là thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào CNC, đặc biệt là những công ty - tập đoàn có công nghệ nguồn.
Khu CNC TPHCM đang đứng trước cơ hội lớn về đón nhận đầu tư CNC. Điều này xuất phát từ các yếu tố như: Quá trình toàn cầu hoá đã dẫn đến việc các quốc gia tham gia ngày càng nhiều vào “Chuỗi giá trị toàn cầu”; Việt Nam được xem là một trọng điểm đón nhận quá trình chu chuyển công nghệ từ nơi có chi phí cao tới nơi có chi phí thấp và có nguồn nhân lực tốt; việc điều chỉnh chính sách đầu tư CNC của các nước như Mỹ, Nhật… đã đặt Việt Nam vào một cơ hội lớn trong việc nhận và thu hút nguồn FDI vào lĩnh vực CNC (trước đây gần như tập trung vào Trung Quốc).
Tính đến đầu năm 2006, Ban Quản lý Khu CNC TPHCM đã cấp 17 giấy phép đầu tư với tổng số vốn là 712,5 triệu USD và 933,6 tỷ đồng. Lĩnh vực đầu tư là các ngành: Sản xuất các linh kiện của máy vi tính và điện tử, chế phẩm sinh học, dược phẩm, phần mềm ứng dụng và dịch vụ.
Ngoài ra, Khu CNC đang chờ xem xét về giải trình công nghệ và bố trí lô đất trong Khu cho 28 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 798,4 triệu USD. Diện tích thuê đất dự tính là 132,5 ha và khoảng 8.000m 2nhà xưởng (chủ yếu sẽ thuộc giai đoạn II).
Ngày 28/2/2006, tập đoàn Intel được Chính phủ trao giấy phép đầu tư dự án nhà máy sản xuất bộ vi xử lý trị giá 605 triệu USD đặt tại Khu CNC TPHCM. Dự kiến giai đoạn đầu, nhà máy chế tạo chip (300 triệu USD) sẽ thu hút khoảng 2.000 lao động nội địa. Bên cạnh đó, cuối 1/2006, Nidec (tập đoàn lớn của Nhật trong lĩnh vực cơ khí chính xác, tự động hoá) đã quyết định nâng vốn đầu tư tại Khu CNC từ 500 triệu lên 1 tỷ USD trong những năm tới. Có thể nói, việc những tập đoàn lớn như Intel, Nidec đầu tư vào Khu CNC TPHCM đã làm thay đổi cán cân về việc chọn lựa môi trường đầu tư của các nhà đầu tư quốc tế vào Việt Nam nói chung và Khu CNC nói riêng so với các nước trong khu vực. Đây là một tín hiệu rất đáng khích lệ đối với Khu CNC và cũng là sự tin tưởng của các nhà đầu tư vào tiềm năng phát triển của Việt Nam .
Trong thời gian tới, Khu CNC sẽ còn tiếp tục thu hút các nhà đầu tư CNC hàng đầu thế giới phù hợp với định hướng phát triển và yêu cầu của Khu. Ngoài ra, Khu CNC còn quan tâm nhiều đến đội ngũ người Việt Nam ở nước ngoài, vì đây là lực lượng bổ sung năng lực nội sinh CNC rất cần thiết cho trong nước.
Để có được sự đầu tư như thời gian vừa rồi Khu CNC TPHCM đã áp dụng những giải pháp và chính sách nào, thưa ông?
Với phương châm học hỏi toàn diện, Khu CNC đã tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu, học tập để rút ra những cách thức tiếp cận nhà đầu tư hiệu quả. Cụ thể, trong thu hút đầu tư, chúng tôi đã rút được kinh nghiệm từ việc phát triển và quản lý các Khu chế xuất - Khu công nghiệp tại TPHCM kiến thức tự nghiên cứu vào những năm 90 từ ý tưởng “Khu công nghiệp kỹ thuật cao”; tiếp xúc trực tiếp với nhà đầu tư để học hỏi các nhu cầu về đầu tư; qua tư vấn nước ngoài, tư vấn từ các chuyên gia, nhà khoa học Việt kiều, các chuyên gia trong nước. Khu cũng hợp tác với các trường đại học trong nước, nước ngoài để đặt hàng những đề xuất về chiến lược tiếp thị quảng bá hình ảnh của Khu CNC, các bước phát triển, từ thu hút đầu tư sản xuất cho đến nghiên cứu - phát triển khoa học và công nghệ (mục đích tạo ra năng lực nội sinh).
Chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư là một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn. Khu CNC đã áp dụng những chính sách như: Chính sách ưu đãi đầu tư cao nhất hiện hành theo Quyết định 53/2004/QĐ-TTg; áp dụng quản lý một cửa với cơ chế hành chính đơn giản, thông thoáng nhằm giải quyết nhanh các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp và phục vụ hoàn toàn miễn phí. Ngoài ra, Khu CNC còn có sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính quyền địa phương: Ban Chỉ đạo xây dựng Khu CNC (đứng đầu là Chủ tịch UBND thành phố) đặt mục tiêu là ưu tiên xây dựng phát triển Khu CNC, đưa Khu CNC thành một chương trình trọng điểm của thành phố để quyết tâm thực hiện cho được mục tiêu đã đề ra. Ban Quản lý Khu CNC đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền rất mạnh trong việc hình thành dự án, tiếp nhận, thẩm định hồ sơ dự án, cấp, điều chỉnh, thu hồi giấp phép đầu tư và quản lý hoạt động các dự án đầu tư nước ngoài trong Khu. Bên cạnh đó, Khu cũng có một hội đồng khoa học để thẩm định dự án công nghệ nên đã rút ngắn rất nhiều về thời gian cấp phép cho nhà đầu tư.
Ngoài ra, để thu hút đầu tư, Khu CNC đã tích cực tiếp xúc với nhà đầu tư, tổ chức các chuyến công tác nước ngoài đến tận trụ sở các công ty, tập đoàn CNC để mời gọi đầu tư; kiên trì đeo bám các nhà đầu tư có công nghệ nguồn (như Intel) để thuyết phục và xúc tiến đầu tư. Hơn nữa, Khu CNC có một vị trí rất thuận lợi, gần Đại học Quốc gia TPHCM; nằm ở trung tâm của 45 khu công nghiệp lân cận trong vùng kinh tế động lực phía Nam, gần sân bay, cảng biển, tạo điều kiện tốt cho các nhà đầu tư hoạt động.
Theo ông, để phát triển Khu CNC TPHCM cũng như các Khu CNC khác, chúng ta cần quan tâm tới những vấn đề gì?
Xây dựng Khu CNC là một vấn đề mới, chưa có tiền lệ phát triển ở nước ta. Trên thực tế, hai khu CNC Hoà Lạc và TPHCM vẫn còn trong giai đoạn “định hình”, việc xác định chiến lược phát triển và vai trò của Khu CNC chưa rõ trong chiến lược phát triển kinh tế chung, đã dẫn đến việc xây dựng, phát triển Khu CNC rất khó khăn, chậm chạp.
Theo tôi, một số yếu tố sau cần được quan tâm: Cần có một chiến lược khoa học và công nghệ có tính hệ thống nhất quán và xuyên suốt trong phát triển đất nước, ưu tiên đặc biệt cho phát triển CNC; cơ chế kinh tế và chính sách khuyến khích có hiệu quả; cơ sở hạ tầng thiết yếu (giao thông, công nghệ thông tin, viễn thông, điện, nước…) đáp ứng nhu cầu phát triển; phát triển nguồn nhân lực công nghệ - kỹ thuật có trình độ cao; tổ chức việc cung ứng dịch vụ và các loại vật tư nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng, hoá chất… cho sản xuất CNC; môi trường pháp lý có tính khuyến khích, ưu đãi, bảo đảm cho các hoạt động khoa học và công nghệ hiện đại, theo các tiêu chuẩn quốc tế; hình thành Ban chỉ đạo Quốc gia về CNC có tính quyết định cao và giải pháp mạnh, chỉ huy thực hiện một chiến lược chung xây dựng và phát triển CNC để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Nên có chương trình hành động và những chính sách cụ thể hoá 4 chương trình quốc gia về CNC trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá quốc gia là: Công nghệ vi mạch điện tử và công nghệ thông tin, viễn thông; cơ khí chính xác, tự động hoá; vật liệu mới, năng lượng mới; công nghệ sinh học. Một vấn đề khác cần nhìn nhận là việc xã hội hoá trong xây dựng và phát triển CNC và Khu CNC, trong đó xem xét có các chính sách ưu đãi thích hợp cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ vừa và nhỏ (SMEs) là thành phần đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá công nghệ, tạo công ăn việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng khoa học, công nghệ. Cuối cùng là cần có chính sách quảng bá tổng thể quốc gia về thương hiệu, sản phẩm CNC Việt Nam .
Đối với riêng bản thân Khu CNC TPHCM, Chính phủ cần xác định rõ đó là Khu CNC Quốc gia đóng vai trò tiên phong, thử nghiệm và đi đầu trong việc tạo năng lực khoa học và công nghệ nội sinh, từ đó nhanh chóng ban hành các chính sách ưu đãi, cơ chế cần thiết đáp ứng tốt cho việc xây dựng và phát triển Khu CNC.
Thành công là rất đáng khích lệ, song còn những hạn chế? Và trong giai đoạn 2006-2010 Khu CNC TPHCM sẽ phát triển như thế nào, thưa ông?
Tôi cho rằng Khu CNC đang còn những hạn chế như: Thiếu một cơ chế đặc biệt, Khu CNC là dự án trọng điểm tầm quốc gia, mang tính chất đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế của cả nước và thành phố, nhưng dự án Khu CNC vẫn chưa được hưởng một cơ chế đặc biệt mà vẫn như dự án thông thường; chưa sẵn sàng về nguồn nhân lực cho các dự án sản xuất công nghiệp, cho nghiên cứu – phát triển và cho cả hoạt động điều hành của Ban Quản lý Khu CNC. Cơ chế tuyển dụng nhân sự, chính sách tiền lương, chế độ thù lao cho Hội đồng khoa học và công nghệ Khu CNC, cho chuyên gia khoa học và Việt kiều vẫn chưa hợp lý và không khả thi; chưa sẵn sàng về hạ tầng (một trong những nguyên nhân gây cản ngại việc giao đất cho nhiều nhà đầu tư đang chờ); chậm đưa các loại dịch vụ thiết yếu phục vụ nhà đầu tư và hỗ trợ hoạt động nghiên cứu – phát triển.
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 8, giai đoạn 2006-2010 được xác định là giai đoạn “định hình” và bước đầu của giai đoạn “tăng tốc và phát triển toàn diện” (2009-2013) của Khu CNC TPHCM. Các chỉ tiêu cụ thể của giai đoạn 2006-2010 là: Thu hút 10 công ty đầu tư trực tiếp của nước ngoài có uy tín về KH&CN trong các lĩnh vực ưu tiên: Bán dẫn, công nghệ thông tin - viễn thông, vật liệu mới – công nghệ nano, cơ khí chính xác, sinh học và công nghệ năng lượng mới - sạch; tập hợp 50 TS, ThS làm việc tại 5 phòng thí nghiệm trọng điểm; ươm tạo thành công một số CNC có hiệu quả, đưa vào sản xuất và thương mại hoá như pin nhiên liệu, tạo sản phẩm CNC từ năng lực nội sinh… Phấn đấu đạt giá trị sản xuất của 5 năm là 4,5 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 3,5 tỷ USD.
Tôi hy vọng trong thời gian tới, cùng với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ, các bộ, ngành, thành phố và sự nỗ lực của Khu, các chỉ tiêu đề ra sẽ được hoàn thành, Khu CNC TPHCM ngày càng phát triển, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố, hạt nhân của Khu đô thị khoa học tương lai ở phía đông bắc TPHCM và là động lực phát triển nền kinh tế vùng trọng điểm phía Nam, cũng như góp phần cụ thể vào việc phát triển kinh tế nước nhà.
Hiện nay các địa phương kinh tế phát triển thường có mong muốn xây dựng Khu CNC, ông nhận xét gì về xu hướng này?
Tôi cho rằng đó là một xu hương phù hợp với định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Tuy nhiên, thực hiện như thế nào thì cần phải được xem xét, phân tích thấu đáo ở nhiều góc độ khác nhau: Cơ cấu kinh tế địa phương, cơ cấu kinh tế vùng và chiến lược chung của cả nước; khả năng huy động các nguồn lực, nhất là nguồi nhân lực và các tác động khác về kinh tế, chính trị, xã hội…
Xây dựng các Khu CNC ở các địa phương cần phải cân nhắc thêm một số nội dung sau: Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế, nhu cầu của từng địa phương mà có thể xây dựng các Khu CNC theo chuyên đề, chức năng riêng biệt (Khu nông nghiệp CNC, khu sinh học CNC…) với quy mô khác nhau. Trước mắt, nên tập trung xây dựng một vài Khu CNC quốc gia với đầy đủ các chức năng như sản xuất, dịch vụ, ươm tạo, nghiên cứu – phát triển, đào tạo… còn các khu khác ở địa phương nên tập trung vào sản xuất CNC và gọi là Khu công nghiệp CNC hay Khu sản xuất CNC. Riêng lĩnh vực công nghệ thông tin thì có thể phổ biến rộng rãi ở các Khu CNC quốc gia hay địa phương để tận dụng khả năng của người Việt Nam trong lĩnh vực mới mẻ này.
Xin cảm ơn ông đã dành thời gian cho Tạp chí và xin chúc Khu CNC TPHCM ngày càng phát triển.
Nguồn: T/c hoạt động KH, số 5/2006, tr 35-36








