Không khí – đó là hàng hoá
Khoản tiền mà các xí nghiệp công nghiệp trả cho lượng nước tiêu thụ hoàn toàn là tượng trưng và do đó nó không khuyến khích cắt giảm mức tiêu thụ nước. Vì vậy, sau cuộc khủng hoảng sinh thái đối với các xí nghiệp công nghiệp đã thiết lập những chế hạn tiêu thụ nước, tăng các biểu giá trả tiền nước tiêu thụ. Đã đưa vào thực hiện mức trả tiền về phát thải các chất độc hại và các nước thải hình thành từ nước tiêu thụ, nghĩa là khái niệm về các chất thải cho phép giới hạn (CCG) đã bổ sung thêm khái niệm tiêu thụ nước được hình thành trước đây.
Sựu hạn chế của một nguồn tự nhiên khác – không khí trong khí quyển (sau đây gọi tắt là không khí) đã nhận thức được ở cấp nhà nước thuộc phương Tây. Còn ở L.B.Nga các cơ quan nhà nước về giám sát sinh thái vẫn tiếp tục kiểm tra các khí thải vào khí quyển trong khuôn khổ CCG - chủ yếu kiểm tra hàm lượng các chất độc hại có mùi khó chịu, kể cả CO và CO 2. Trong trường hợp này người ta “kiêng” nhắc đến sự ô nhiễm không khí bởi thuỷ ngân, đioxin và cả α – methylstirol. Do không có khái niệm tiêu thụ không khí nên đã gia tăng sử dụng nó trong các mục đích công nghiệp, điều đã trở thành nguyên nhân giảm mạnh nồng độ oxy trong các khu nhà ở trong thành phố công nghiệp. Điều đó không chỉ làm xấu đi tình trạng sức khoẻ của dân cư thành phố, mà còn mâu thuẫn với quy phạm hiện hành về an toàn công nghiệp. Thí dụ, quy trình về an toàn khi tiến hành các công tác bên trong thiết bị (hiệu chỉnh, sửa chữa, lắp ráp…) cho phép hàm lượng oxy trong đó không dưới 18% theo thể tích (hàm lượng oxy trong không khí ở độ cao của người lớn không dưới 21% theo thể tích). Tình trạng không khí xấu đã được phát hiện cách đây vài năm một các ngẫu nhiên – khi điều tra các nguyên nhân và tình huống làm hỏng công việc trong các thiết bị đặt ngoài trời. Đã xác định được như sau: Những công việc đã không được phép thực hiện do không đủ nồng độ oxy trong không khí ở bên trong các thiết bị mắc dù những công việc chuẩn bị đã được tiến hành hoàn hảo, nhưng các thiết bị lại thông với không khí qua những nắp của đường kính gần 1m mở hoàn toàn. Hơn nữa, đã xác định rằngnồng độ oxy trong không khí đã dưới 18% theo thể tích và cách xí nghiệp vài km là khu nhà ở dân cư thành phố. Giả định một cách logic là vào thưòi gian lạnh của năm và thời tiết không có gió thì nồng độ oxy trong không khí có thể còn thấp hơn, nhưng không khí trong thành phố đã không được phân tích về hàm lượng oxy.
Rõ ràng không khí trong thành phố đã ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng của dân cư (uể oải, chóng mỏi mệt) được lý giải không chỉ do có sự hiện hữu của các chất độc hại, mà cả do thiếu oxy. Ảnh hưởng đó được dân cư phát hiện trong những ngày nghỉ, mùa hè, khi các người dân thành phố đi ra các nhà nghỉ, biệt thự… ở vùng quê. Bản hướng dẫn về quy phạm an toàn tiến hành các công việc bên trong các thiết bị quy định nồng độ tối thiểu của oxy trong không khí là 18% theo thể tích để người đàn ông khoẻ mạnh, đủ khả năng lao động có thể thở được mà không bị rủi do mất tri giác (ngất). Để hồi phục sức khoẻ cho người công nhân đó ngoài ngày làm việc và các thành viên của gia đình anh ta (có thể là những người ốm yếu, có tuổi, trẻ em kể cả các bé còn đang bú) cần phải có không khí với hàm lượng oxy cao hơn. Vì vậy không khí trong các thành phố công nghiệp cần được kiểm tra về hàm lượng oxy.
Việc tiêu thụ không khí trong công nghiệp ở ngay sát khu dân cư sinh sống của thành phố không thể không làm xấu đi chất lượng không khí. Chúng ta hãy thử nghiên cứu thí nghiệm sau đây: Việc thu được oxy và một phần nitơ trong công nghiệp từ không khí trong một xưởng cuả xí nghiệp hoá chất lớn có vẻ như hoàn toàn sạch về sinh thái so với các xưởng công nghệ khác. Tuy nhiên không khí được cung cấp đến xưởng đó từ khoảng cách gần nửa km từ khu vực đảm bảo vệ sinh với chiều rộng gần 2km bằng đường ống có đường kính 1m (nghĩa là xưởng công nghiệp đòi hỏi lượng không khí lớn sạch hơn). Trong việc tiêu thụ không khí, xưởng này cạnh tranh với thành phố. Oxy lỏng và nitơ được nạp vào các bình thép để bán cho các xí nghiệp khác; một phần oxy được sử dụng để cắt kim loại ở trong các xí nghiệp. Như vậy, để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá – oxy lỏng tinh khiết – xí nghiệp sử dụng nguồn tự nhiên miễn phí để làm nguyên liệu là không khí. Trong trường hợp này nitơ thu được trong quá trình sản xuất đó, không được trả về khí quyển (theo quan điểm của kỹ thuật an toàn), mà được sử dụng trong các xưởng công nghệ khác, chủ yếu để tạo ra cái gọi là “những lớp đệm nitơ” trên chất được đựng trong các bể chứa, các thiết bị (với mục đích ngăn cản sự tiếp cận với không khí chứa oxy, những hợp chất nguy hiểm). Việc sử dụng khối lượng nitơ lớn đó dẫn tới đẩy ra những chất độc hại khỏi các bể chứa và làm xấu đi tình trạng của khí quyể trên mặt đất.
Việc sử dụng nitơ để đẩy hỗn hợp clorua – hydro cácbon từ khí acid clohidric ra ngoài bể chứa có thể dẫn tới phả huỷ chế độ công nghệ của các giai đoạn công nghệ tiếp theo đó, đồng thời làm ô nhiễm thêm các nguồn nước thải.
Vì kiếm lợi nhuận từ không khí với việc tách oxy từ không khí trực tiếp ở khu vực nhà ở trong thành phố và ở khoảng cách vài chục mét cách những khu nhà ở cao tầng xem ra rất không hay về cả mặt sinh thái, cũng như về mặt đạo đức. Trong trường hợp này có thể nói đúng ra là sự đánh cắp về sinh thái, sự bóc lột sinh thái.
Việc thu hồi oxy từ không khí trong công nghiệp mâu thuẫn với khái niệm các chất thải cho phép giới hạn (CCG) do các nguyên nhân sau: CCG của nitơ chưa đựợc quy định, CCG của nitơ chắc chắn và nhất quán sẽ được xác định bằng lượng oxy thu được. Nói cách khác: khi thực hiện triệt để khái niệm CCG chúng ta tất nhiên sẽ gặp phải sự cần thiết xác lập mức tiêu thụ không khí cho phép giới hạn (TKCG).
Chúng ta đã trình bày và phân tích một thí dụ hiển nhiên, nhưng chưa phải gây được ấn tượng mạnh nhất về những hậu quả tiêu cực của việc tiêu thụ không khí trong công nghiệp. Tuy nhiên việc phân tích thử đầu tiên đã dẫn đến những kết luận, không chỉ mới và hữu ích về khía cạnh phương pháp luận, mà còn có cả ý nghĩa thực tiễn. Từ những kết luận đó cần phải tạo ra các thiết bị mới tách oxy từ không khí sát ngay xưởng công nghiệp đã xây dựng từ trước có quy mô lớn hơn trên cơ sở luận chứng kinh tế của các chủ sở hữu thiết bị.
Số lượng và tính đa dạng của các hộ tiêu thụ không khí rất lớn. Vì vậy theo mức độ phân tích đã tổng quát hoá các kết quả đạt đựơc trong nhận thức về tình trạng bầu khí quyển của các thành phố. Tuy nhiên mọi người đều biết rất rõ một nguyên tắc không thay đổi đó là sự tiêu thụ không khí trong công nghiệp luôn luôn dẫn tới sự ô nhiễm khí quyển. Do đó cần phải lưu ý đến những chương trình phát triển những xí nghiệp công nghiệp liên quan đến sự gia tăng tiêu thụ không khí. Như vậy trong tương lai không xa có thể dự đoán sự ô nhiễm ra tăng đối với khí quyển trong các khu dân cư đông đúc nằm sát các xí nghiệp công nghiệp. Điều quan trọng là phải nhận thức đựơc kịp thời và kiên quyết đưa khái niệm về mức tiêu thụ không khí cho phép giới hạn (TKCG) vào cuộc sống nhằm giảm thiểu ô nhiễm bầu khí quyển của các thành phố. Việc đưa vào thực hiện các chế hạn về tiêu thụ không khí và trả tiền về sự tiêu thụ đó là công việc cấp bách của toàn xã hội.
Trong điều kiện hiện đại và giám sát khí quyển trong các thành phố công nghiệp chủ yếu cần phải thực hiện trong một hệ thống của nhà nước bằng các phương tiện tự động và tập trung và công khai những kết quả kiểm tra. Từ lâu mọi người đều biết rằng khả năng tái tạo sức lao động của người đàn ông ở cấp vi mô được xác định bởi độ ô nhiễm của không khí, thí dụ độ ô nhiễm bởi α – methylstirol. Mặt khác, sức khoẻ và sự phát triển tiếp theo của các đứa trẻ mới sinh ra cũng sẽ phụ thuộc vào tình trạng không khí để đảm bảo các điều kiện sức khoẻ cho mọi người ở các lứa tuổi có khả năng phát triển và nghỉ ngơi.
Triển vọng của việc đưa vào khái niệm TKCG, các chế hạn tiêu thụ và các khoản tiền trả cho việc tiêu thụ không khí có thể ảnh hưởng đến sự thay đổi lề thói của những hộ tiêu thụ không khí, rất có thể những hộ này lần đầu tiên trong suốt thời gian tồn tại ngành công nghiệp sẽ quan tâm đến việc tìm kiếm và khắc phục sự tiêu thụ không khí không suy nghĩ, thiếu căn cứ xác đáng và không hiệu quả. Vì thế cho nên sẽ nảy sinh những mối hoài nghi về tính đúng đắn của chính sách kỹ thuật đang hình thành. Tuy nhiên chỉ có thể hi vọng sự thay đổi thực tế của chính sách kỹ thuật, phương pháp luận về hoạt động khoa học và khoa học ứng dụng sau khi đưa các chế hạn tiêu thụ và các khoản tiền trả cho việc tiêu thụ không khí vào cuộc sống. Việc tăng mức tiền trả, đặc biệt trong trường hợp vượt các chế hạn quy định về tiêu thụ không khí có thể buộc các hộ tiêu thụ lớn tự mình nghiên cứu triển khai, áp dụng và hoàn thiện những công nghệ đang sử dụng không khí. Cùng với tình trạng không khí ngày một xấu đi, những chế hạn tiêu thụ sẽ phải cắt giảm, biểu giá sẽ tăng, các hộ thiêu thụ sẽ có thể phải có những biện pháp tái sử dụng, sử dụng nhiều lần, làm sạch hoặc chế biến không khí đã qua sử dụng, thậm chí cả khói. Việc tạo ra các chu trình khí khép kín, sản xuất oxy cho việc tiêu thụ trong công nghiệp (bằng các phương pháp điện – hoá và hoá học) hiện nay chưa thực hiện được nhưng sẽ có thể thực hiện đựơc sau khi có những thay đổi đột ngột về nhận thức của xã hội trong tương lai.