John Dewey, giáo dục chính là cuộc sống
Những cuốn sách về triết lý giáo dục thường có xu hướng quy về việc nghiên cứu tư tưởng giáo dục cụ thể của một số nhà triết học-giáo dục học. Việc này có thật sự có cơ sở hay không? Ảnh hưởng của cá nhân các nhân vật đó lúc sinh thời, cho dù họ là những vĩ nhân, không phải bao giờ cũng lớn đến mức có thể định hình cả một nền giáo dục. Trong nhiều trường hợp, những ảnh hưởng đó chỉ là sự hư cấu của những thế hệ sau, vốn bị tách rời khỏi bối cảnh lịch sử và suy nghĩ bằng một lô gích khác.
Câu trả lời của tôi là, không phải tình cờ mà những nhà giáo dục lớn thường cũng là những nhà triết học lớn. Socrates, Platon, Aristotle, Khổng Tử, Đức Phật Thích Ca Mầu Ni, Kant là những ví dụ điển hình. Tất cả những con người khổng lồ này đều đứng ở cội nguồn của những nền giáo dục vĩ đại. Lý do thật ra rất đơn giản. Bất kỳ nền giáo dục nào đáng gọi là một nền giáo dục đều phải bắt đầu từ một triết lý giáo dục mà ba câu hỏi quan trọng nhất là: 1. Bản chất con người là gì? 2. Chúng ta muốn con người trở thành như thế nào? 3. Phải làm gì để có con người chúng ta mong muốn? Để trả lời những câu hỏi này, người ta cần đến triết học.
Ảnh hưởng của các nhà triết học lúc sinh thời có thể không lớn, nhưng điều đó không hề làm giảm tính đại diện của họ đối với một truyền thống triết lý, trong đó có triết lý giáo dục. Lý do là những độc giả của các thế hệ sau có thể bị tách rời khỏi bối cảnh lịch sử của thời đại khi các tác phẩm triết học được viết ra, nhưng tác giả của những tác phẩm ấy thì gắn liền với bối cảnh đó. Về bản chất, các nhà tư tưởng cũng là sản phẩm của thời đại họ sống. Vì thế, ngay cả trong trường hợp tác phẩm của họ chưa thật sự được phổ biến lúc sinh thời, nó vẫn phản ánh ít ra là mầm mống của xu hướng, hay một trong những xu hướng, trí tuệ của thời đại.
Những điều này rất đúng với John Dewey, với Thực dụng luận, trong đó có Công cụ luận (instrumentalism) do Dewey phát triển, và với triết lý giáo dục của ông.
John Dewey (1859-1952), tác giả của cuốn sách “Dân chủ và giáo dục” mà các bạn đang cầm trên tay, cũng là một nhà giáo dục vĩ đại đồng thời là triết gia xuất sắc như vậy. Là một trong ba nhà sáng lập Thực dụng luận1, gia tài tư tưởng triết học và giáo dục đồ sộ của ông bao trùm đời sống trí tuệ của nước Mỹ suốt thế kỷ 20 và ông thực sự trở thành thần tượng của những trí thức Hoa Kỳ lỗi lạc nhất. Richard Rorty tuyên bố: “Triết gia tôi ngưỡng mộ nhất, người tôi được coi mình là học trò nhất, là John Dewey”2. Noam Chomsky, người hồi nhỏ từng theo học rồi về sau dạy học ở một trường theo đường lối của Dewey, cũng thừa nhận thường xuyên trích dẫn John Dewey như một người có ảnh hưởng to lớn đến cuộc đời mình.

Thực dụng luận, nền triết học đặc biệt Hoa Kỳ, là sản phẩm của một xã hội kỳ lạ. Xã hội ấy được đặc trưng không chỉ bởi tính dân chủ (cho dù khi đó mới chỉ áp dụng với người da trắng), bởi một nền kinh tế tự do chưa từng có trong lịch sử3 với mạng lưới phức tạp của những quan hệ xã hội, và trên hết là bởi một mặc cảm không quá khứ vô tiền khoáng hậu dẫu nền tảng tư tưởng của nó vẫn gắn liền với truyền thống duy lý phương Tây. Chính những đặc điểm này, bằng cách nào đó, đã thúc đẩy Charles Peirce và William James, và sau đó là John Dewey, từ bỏ Siêu hình học và đề cao sự hữu ích cũng như tính hiệu quả - những ý tưởng chính của Thực dụng luận. Các nhà Thực dụng luận cho rằng tri thức của chúng ta không hề có một nền tảng khách quan tuyệt đối nào, vì thế, thay vì đánh giá tri thức qua sự tương ứng của nó với chân lý khách quan, chúng ta chỉ có thể đánh giá tri thức qua khả năng ứng dụng để lý giải và dự báo thực tại trong những hoàn cảnh cụ thể. Nói theo cách của Công cụ luận, chân lý chỉ là một thứ công cụ để chúng ta giải quyết các vấn đề của thực tại. Khi thực tại thay đổi, các vấn đề cũng thay đổi, các công cụ bắt buộc cũng phải thay đổi theo. Về điểm này, họ chính là những tiền bối của chủ nghĩa Hậu hiện đại.






