I (ngắn) hay Y (dài) - vấn đề nghiêm túc
Cho đến nay có hai quan niệm chính:
Quan niệm thứ nhất cho rằng chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm khá triệt để (nói thế nào viết thế ấy) và coi đó là một ưu tiểm ít có của loại hình chữ ghi âm. Những chỗ chưa tương ứng 1-1 giữa âm và chữ (như âm /k/ được ghi bằng cả ba chữ c, kvà q, âm /z/ghi bằng hai chữ dvà gi,...) bị coi là “bất hợp lí”, luôn nằm trong phương án cải tiến, để sao cho đạt mô hình lí tưởng (một chữ/ một âm). Chúng tôi tạm gọi đây là quan niệm chữ - âm.
Điều đáng chú ý của quan niệm này là, các “bất hợp lí” đều được lí giải từ góc độ ngữ âm thuần túy:
- Hoặc do hạn chế của người sáng tạo ra nó (Alexandre de Rhodes). Ví dụ, giữa g/gh, ng/nghthực ra không có gì khác nhau cả, không phản ánh được gì về ngữ âm, vậy nên bỏ chữ hđi cho tiện: gế, ngệ.
- Hoặc do ngữ âm đã biến đổi mà chữ viết chưa biến đổi để theo kịp, tạo nên độ “vênh” giữa âm và chữ. Ví dụ, d/gingày nay đều ghi âm /z/,vậy nên nhất loạt viết dhoặc z.
- Hoặc do một thói quen không rõ lí do. Ví dụ, viết iên ngỉhợp lí hơn nhưng sở dĩ cứ viết yên nghỉchẳng qua vì thói quen.
Tóm lại, toàn những lí do không có gì là “chính đáng” cả. Vì thế, các tác giả chủ trương căn cứ vào phát âm để cải tiến chính tả: “ Khi giữa lời nói và chữ viết không có sự phù hợp nữa thì phải cải tiến chữ viết, chứ không phải cố tìm cách phát âm theo chữ viết hiện hành...” (1).
Quan niệm thứ hai cho rằng chữ viết khác lời nói về bản chất. Chữ viết, dù là chữ ghi âm, cũng được đọc bằng mắt chứ không phải bằng tai, cho nên cách nhận diện từ ngữ khi đọc khác hẳn khi nghe: “ Khi một hệ chữ viết đã được dùng trong vài ba thế kỉ, nó trở thành một truyền thống văn hóa. Mỗi từ ngữ dần có một diện mạo riêng. Một gestalt (2) mà người ta đã quen thuộc đến mức không thể thay đổi được nữa. Và cái gestalt thị giác do cách viết tạo nên được liên hội với cái nghĩa của từ ngữ bất chấp cách phát âm ra sao, và nhờ đó người đọc phân biệt các từ đồng âm...”(3). Chúng tôi tạm gọi đây là quan niệm chữ - nghĩa.
Trong hai quan niệm trên thì quan niệm chữ - âmchiếm đa số trong giới ngôn ngữ học, còn quan niệm chữ - nghĩa, nếu tôi không nhầm thì chỉ có mỗi mình GS. Cao Xuân Hạo và không mấy ai biết đến. Do đó, quan niệm thứ nhất được nêu lên ở hầu hết các giáo trình ngôn ngữ học và tiếng Việt, nó phổ biến đến tất cả các thế hệ học sinh, sinh viên mấy chục năm qua, làm cho ai đã học các chương trình ngôn ngữ học cũng đều tin rằng đúng là chữ Quốc ngữ có những bất hợp lí ấy. Chính tôi (ĐTT) một thời gian dài cũng tin là như thế.
Nhưng qua thực tế và từ khi được đọc Cao Xuân Hạo, tôi thấy quan niệm thứ hai là có cơ sở, cả lí thuyết và thực tiễn. Xin được nêu thêm một số suy nghĩ.
1. Đành rằng chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, nhưng đấy chỉ là điểm xuất phát của nó. Đến giai đoạn đã hoàn thiện thì giữa âm và chữ có tính độc lập tương đốivà thuộc hai kênh giao tiếp khác nhau. Hơn nữa, số lượng âm tiết là có hạn trong khi nhu cầu biểu hiện nghĩa ngày càng lớn. Số lượng từ đồng âm do đó ngày càng nhiều. Nếu trên chữ viết có sự khác nhau giữa các từ đồng âm, dẫn đến phân biệt được các nghĩa khác nhau thì đó là điều cần thiết, chứ không phải sự bất hợp lí. GS. Cao Xuân Hạo cho rằng: “ Nhược điểm của chữ Quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm vị học, mà ở chỗ nó có tính chất thuần túy ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy lộ rõ nhất và tai hại nhất là trong trường hợp các từ đồng âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt. Tuy vậy, cũng giống như chữ Anh và chữ Pháp, những chỗ bị người ta coi là bất hợp lí chính là những chỗ làm cho nó phân biệt nghĩa và cội nguồn của các từ đồng âm như da và gia, lí và lý (trong lí nhí)”(4). Chúng tôi tán thành ý kiến này, nhưng cần nói thêm: chữ Quốc ngữ khoảng gần một trăm năm nay cũng không thuần túy ghi âm nữa. Biểu hiện rõ nhất là, về ngữ âm nước ta có ba vùng phương ngữ lớn (Bắc, Trung, Nam) nhưng chữ viết chỉ là một. Nếu cứ theo nguyên tắc ghi âm thì chữ Quốc ngữ lẽ ra đã phải vỡ thành ba mảng. Nhưng cả ba miền đã chấp nhận một chính tả thống nhất như hiện nay, thực chất là đã chấp nhận tính chất “ghi ý” của nó. Ngoài ra, có thể thấy sự không tương ứng giữa chữ và âm ở các chữ viết tắt và các kí hiệu đơn vị đo lường, các kí hiệu toán học và các kí hiệu khác ngày càng nhiều trong tiếng Việt hiện đại: viết UBNN, USD, m, kg, D , ^ , v.v, &,... nhưng đọc là ủy ban nhân dân, đô la Mĩ, mét, ki lô gam, tam giác, vuông góc, vân vân, và, chứ không đọc u -bờ-e-nờ-e-nờ, u-ét-đê, e-mờ, ca-gờ,...Rõ ràng những kí tự trên đã trở thành những kí hiệu ghi ý chứ không phải ghi âm.
2. Nếu cứ lấy phát âm làm chuẩn chính tả thì có thể lấy cái kém văn hóa thay cho văn hóa và có nguy cơ làm nghèo dần tiếng Việt. Chẳng hạn nhập /d/và /gi/làm một thì hàng loạt sự phân biệt nghĩa bị xóa bỏ: danh dự / mái gianh, dì cháu / cái gì, da diết / giết người, dâm dục / giâm cành. Hiện nay, trừ người Bắc Bộ, về cơ bản người Trung và Nam Bộ còn phân biệt các phụ âm /ch/và /tr/, /x/và / s/, /d (gi)/và /r/,nhưng sự phân biệt này cũng đang giảm dần. Theo sự quan sát của tôi, thế hệ sinh từ thập kỉ bảy mươi trở lại đây ở miền Tây Nam Bộ đã nhập /ch/và /tr/thành / ch/, /x/và /s/thành /x/như người Bắc. Còn /r/thì nhập vào /g/:con cá gô(rô) để trong gổ(rổ). Số người trẻ tuổi ở miền Bắc phát âm /l/thành /n/cũng ngày càng tăng lên. Đến một ngày nào đó, rất có thể số người nói trên trở thành đa số và chẳng lẽ chuẩn chính tả mới sẽ là nhập các cặp phụ âm kia lại và ta sẽ viết đấu chanh, xang chọng, độc nập?
3. Chuẩn chính tả quan trọng hơn chuẩn chính âm. Do đó trong tiếng Việt văn hóa, vẫn có xu hướng lấy chính tả để sửa phát âm (một cách tự nhên chứ không ai bắt buộc). Người miền Bắc có chút học hành ngày nay đều phát âm đúng âm /r/, /p/trong các từ gốc nước ngoài ( ra đa, đèn pin, A-ri-xtốt); người Nam Bộ khi cần cũng đọc đúng /v/(trong Việt Nam).
Đến đây vấn đề viết I(ngắn) hay Y(dài) của chúng tôi đã được giải quyết về mặt lí thuyết. Chúng tôi bảo vệ sự phân biệt Ivà Yvì những lí do trên. Trên thực tế thì các trường hợp âm /i/đứng một mình làm âm tiết đã ổn định từ lâu: viết Ykhi là từ Hán Việt ( y tế, yêu cầu, ý kiến); viết Ikhi là từ thuần Việt ( ỉ eo, í ới). Khi /i/làm âm chính có âm đệm cũng đã ổn định: viết quy tắc, huy hoàng. Khi /i/làm âm chính trong âm tiết mở cũng từ lâu chủ yếu viết I( khi, ni, chi, bi,...). Vậy chỉ còn /i/khi đứng sau các phụ âm /h, k, l, m, s, t/là phải bàn. Vấn đề cũng đơn giản: ta cứ theo nguyên tắc phân biệt nghĩanhư chính tả với các từ khác. Và đã có tiền lệ của /i/khi đứng đầu âm tiết nói ở trên; viết Ykhi là từ Hán Việt, viết Ikhi là từ thuần Việt. Ta có (chỉ kể một số từ đại diện cho mỗi nghĩa gốc):
- H: hy vọng / (cười) hi hi; du hý, hý trường / (mắt) ti hí; hiếu hỷ / hỉ mũi,
-K: kì vọng / kì cọ; du kí, kí sinh / kí cóp, kí (kilôgam); đố kỵ, kỵ binh / kị cọ; kỉ luật, kỉ yếu, kỉ niệm; kĩ nữ, kĩ thuật / kĩ càng.
- L: ly biệt, ly kì, lâm ly / cái li (cốc), (giấy) ô li; lì lợm, nhẵn lì, lí thuyết, hương lí, hải lí / (điệu) lí, (nói) lí nhí; tỉnh lỵ, kiết lỵ / (mà) lị.
- M: họa my, tu my / (bọn) mi, mi ca; mỵ dân / mụ mị; mí mắt; mỹ thuật, mỹ tửu / (nước) Mĩ.
- S: sân sy / cây si, nốt si; đen sì, sì sụp; sỷ nhục / mua sỉ; sỹ tử, sỹ phu, sỹ diện.
- T: ty (sở), tự ty, công ty / đinh ti, ti trôn, (bé) ti ti, ti toe; tỳ vết, tỳ bà / tì (tày); (năm) tý / (bé) tí; tỉ lệ / tỉ tê; tỵ nạn, (năm) tỵ / tị nạnh.
Nhiều người sẽ băn khoăn: làm thế nào để người viết biết được khi nào là từ Hán Việt, khi nào là từ thuần Việt? Đúng là số đông không dễ biết điều này, nhưng điều đó không quan trọng lắm. Nếu đã thống nhất được chuẩn và các sách báo làm gương thực hiện đúng chuẩn thì mỗi chữ viết Ihay Ydần dần sẽ trở thành những gestalttrong trí óc mỗi người, cũng giống hôm nay vẫn không thành hiện thực? Ngược lại có một số manh nha cải tiến đang đi vào hiện thực những năm sáu mươi như nhất loại viết i (ngắn) khi i đứng làm âm chính (kể cả viết qui tắc) thì từ cuối thập kỉ tám mươi đến nay lại đang có xu hướng trở lại viết y(dài): hy sinh, lí thuyết, mỹ thuật, sỹ phu..?? Tóm lại cả hai hiện tượng - sự thờ ơ với những đề xuất cải tiến (mặc dù đa số đều nhận thức được những “bất hợp lí” như quan niệm thứ nhất) và sự “chống lại” xu hướng cải tiến một cách không ý thức – cho ta thấy sự “lạc hậu” của chính tả Quốc ngữ là có lí do của nó. Riêng trường hợp /i/khi đi với sáu phụ âm nói trên, hầu hết các từ điển đều chọn Inhưng thực tế đa số các sách báo vẫn dùng cả hai, không phải bao giờ cũng là sự tùy tiện.
Cũng cần nói thêm, lựa chọn Ihay Yrất có ý nghĩa đối với tên riêng. Cũng giống như sự lựa chọn giữa Dao(gươm dao) / Giao(giao hòa), giữa Da(da thịt) / Gia(gia đình, quốc gia)... giữa I / Ycũng tương tự như vậy. Hầu hết tên riêng đầu chọn Yvì là từ gốc Hán, thể hiện ý nghĩa trừu tượng hoặc sắc thái văn chương: chọn Hy(hy vọng, hy sinh) chứ không chọn Hi(cười hi hi), chọn Kì(kì vọng) hứ không chọn Kì(kì cọ), chọn Mỹ(đẹp) chứ không chọn Mĩ(đế quốc Mĩ), v.v... Nếu nhất loạt viết Ithì dụng ý trên không còn nữa, và đó cũng là một lí do người ta không chịu bỏ Y.
Cuối cùng về mặt gọi là giản tiện trong chữ viết thì viết Ychẳng tốn kém gì hơn so với I. Chúng đều chỉ có một kí tự. Động tác viết Ycòn đơn giản hơn vì không phải đánh dấu chấm.
Với tất cả những lí do trên chúng tôi cho rằng việc giữ lại sự phân biệt giữa I / Ylà cần thiết và hoàn toàn có thể làm được.
________________
Tài liệu tham khảo
1. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Chiến - Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2003).
2. Gestalt: Thuật ngữ gốc Đức, nghĩa như “hình thể”, “hình dạng”, “hình thức”. Gestalt trở thành một học thuyết của tâm lí học, cho rằng sự tri giác của con người không phải là tổng số cảm giác mà có tính tổng hợp, khái quát, toàn bộ. Tác giả dùng thuật ngữ gestalt ý nói rằng, hình dạng của một chữ cho ta ngay cái nghĩa của nó chứ không phải gián tiếp qua tái tạo vỏ âm thanh như đa số quan niệm của các nhà ngôn ngữ học đối với chữ ghi âm.
3. Cao Xuân Hạo - Tiếng Việt người Việt, văn Việt, NXB Trẻ, 2001.
4. Cao Xuân Hạo, Sđd