"Huyền thoại" về một người "sát" muỗi
Và chị đã như thế suốt 3 tháng ròng rã ở nơi rừng thiêng nước độc này chỉ để cho muỗi đốt. “Sống chung” với muỗi, quyết tâm của chị là phải thực hiện thành công đề tài nghiên cứu về căn bệnh sốt rét. Chị là PGS-TS Ngô Giáng Liên, Phó Chủ nhiệm Bộ môn tế bào Mô-Phôi và Lý Sinh, trường ĐH Khoa học tự nhiên-ĐH Quốc gia Hà Nội.
Cảm động trước sự cố gắng phi thường của nhà khoa học nữ Giang Liên, WHO đã giới thiệu chị với Hội đồng Anh (British Council) giúp chị tiếp tục thực hiện đề tài nghiên cứu ở môi trường thí nghiệm hiện đại để rồi sau đó, chị và các cộng sự VN đã tìm ra được vector truyền bệnh ở loài muỗi. Nhờ có kết quả nghiên cứu này, những năm gần đây, ngành dịch tễ học Việt Nam đã đạt những hiệu quả tích cực trong việc phòng chống căn bệnh sốt rét .
Từ câu chuyện “xây nhà” cho… muỗi
Tại khoa Sinh, Đại học KHTN-ĐHQG Hà Nội, ai cũng đùa rằng PGS-TS Ngô Giáng Liên là người “sát” muỗi. Bởi lẽ, chị chính là tác giả của nhiều đề tài nghiên cứu đã chỉ đích danh “thủ phạm” gây ra căn bệnh sốt rét.
Chị Giáng Liên nhớ lại, năm 1992, khi đọc báo cáo dịch tễ về căn bệnh sốt rét, từng cướp đi sinh mạng của hơn 4000 người dân Việt Nam, chị bỗng nhiên cảm thấy “có trách nhiệm” của mình trong đó. Với chuyên môn Lý Sinh, chị Liên đã nảy ý định muốn tìm ra con đường phòng chống căn bệnh sốt rét hiệu quả nhất thì phải xác định rõ vector truyền bệnh từ loài muỗi.
Thời điểm đó, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, nơi chị Liên công tác thiếu thốn đủ bề. Được các nhà dịch tễ học giới thiệu, chị Liên đã quyết định khăn gói lên đường, vào sống cùng với đội phòng chống sốt rét ở khu rừng Khánh Phú, tỉnh Khánh Hòa.
Đây là một khu rừng nhiệt đới điển hình của Việt Nam có tiếng là “rừng thiêng nước độc”, là nơi tập trung nhiều loài muỗi sinh sống và cũng là khu vực có tỷ lệ bệnh nhân sốt rét cao nhất cả nước.
Để có thể đương đầu với căn bệnh sốt rét, chị Liên tự “phòng thủ” cho mình đủ 3 liều thuốc dự phòng. Vào tới nơi, nhà khoa học nữ này đã phải tự xây dựng cho mình một phòng thí nghiệm tự nhiên. Phòng thí nghiệm của chị đơn sơ tới mức, những chiếc bát ăn cũ dùng để chứa nước mưa hoặc nước suối rừng được “huy động” để sử dụng là “nhà” cho muỗi.
Thay vì phòng có mái che, giữ nhiệt độ luôn ẩm và mát, chị Liên đã đặt những “căn nhà” của muỗi dưới tán cây cổ thụ. Để tranh thủ tối đa thời gian ở thực địa, ngày nào cũng vậy, chị Liên chọn thời điểm thích hợp (thường vào lúc trời chuyển tối) và cho muỗi đốt vào chính cơ thể mình rồi bắt chúng và nuôi tại môi trường thiên nhiên. Sau đó chị lập các tiêu bản theo phương pháp nghiên cứu kiểu nhân.
…Đến sự hy sinh quên mình vì khoa học
Chấp nhận mọi sinh hoạt thiếu thốn và sống chung với muỗi, bản thân chị đã không còn cảm giác đau, ngứa vì bị muỗi đốt quá nhiều. Thời gian dự tính ban đầu vào rừng là một tháng đã không đủ cho chị thực hiện thu thập các số liệu nghên cứu, chị Liên gửi thư về nhà cho chồng, con và xin phép Khoa được ở lại trong rừng Khánh Phú thêm 3 tháng đề lập cho đủ những dữ kiện đa dạng về các loài muỗi.
Và suốt 3 tháng ròng rã sống trong rừng thiêng nước độc, điều kiện ăn uống và sinh hoạt đều thiếu thốn và kham khổ, chị Liên đã thực sự như một người lính “đặc công” xả thân tìm cách ngăn chặn sự tàn phá của loài muỗi với con người.
Đúng ngày 26 Tết năm 1992, chị Liên với lỉnh kỉnh đồ đạc thí nghiệm và 6 hộp tiêu bản rời cánh rừng Khánh Phú quay trở về Hà Nội. Chỉ một tháng sau đó, chính căn bệnh sốt rét từng âm ỉ trong người chị suốt thời gian ở rừng bắt đầu phát tác.
Chị Liên bị sốt rét ác tính với liên miên những cơn sốt nóng, lạnh hành hạ. Sau đợt ốm này, chị kể, đến giờ chị vẫn chưa thể lấy lại nước da trắng hồng mà chị thừa hưởng của mẹ. Chị đã bị “xấu” đi rất nhiều vì môi thâm, da bị tái vì căn bệnh sốt rét phá hủy hồng cầu.
PGS Giáng Liên cùng con gái. |
Ngoài thời gian lên giảng đường, vào phòng thí nghiệm, chị Liên lại trở về với vai trò một người mẹ hiền, người vợ đảm. Chị Liên cho rằng, mình là người ôm đồm vì chị vẫn luôn hết mình cho công việc cũng như muốn trọn vẹn việc chăm sóc gia đình. Chính vì vậy, bên cạnh các đề tài nghiên cứu cấp quốc gia, các giải thưởng khoa học, giải thưởng vì sự nghiệp giáo dục, một phần thưởng giá trị khác đối với cuộc đời chị chính là mái ấm gia đình hạnh phúc cùng nguời chồng- người đồng nghiệp luôn chia sẻ cảm thông với vợ và hai đứa con ngoan đều đã trưởng thành.
Kể về mình, chị luôn chỉ cười giản dị: “Có gì đâu! Nghiên cứu khoa học cũng là niềm đam mê của chị mà!” Ngày 8/3 năm nay, cũng như mọi năm, chị và con gái chị luôn là những người hơn hở nhất vì cả năm duy nhất chỉ có ngày này, họ trở thành “Chúa tể”.
Nguồn: dantri.com.vn 07/03/2008