Hôn lễ công chúa Việt Nam triều Nguyễn
Ở Việt Nam các tập tục cũ bị xoá mờ dần: các nghi thức cung đình, đám rước, ngày lễ mỗi ngày một mất đi dáng vẻ tráng lệ thời xưa. Ta có sợ với sự phát triển hiện nay, một số nghi thức cũ sẽ vĩnh viễn mất đi không? Trước khi chúng trở thành một kỷ niệm xa vời, tôi muốn mô tả với độc giả những nghi thức được xác lập từ xưa đối với hôn lễ các bà công chúa Việt Nam.
Khi một cô công chúa đến tuổi 16, nhà vua chỉ dụ cho Bộ Lại và Bộ Binh lập danh sách các con, cháu và chắt của các công thần thuộc nhất và nhị phẩm trong hệ thống quan lại. Danh sách đó ghi họ tên, tuổi và quê quán các chàng trai trẻ, được dâng lên vua cùng tờ tấu chi tiết. Những người được chọn phải đạt tối thiểu là 16 tuổi, không có dị tật, thông minh và dễ coi. Khi nhận được danh sách đó, hoàng thượng ra chỉ dụ chỉ định một vị hoàng thân làm nhiệm vụ chủ hôn, và một đại thần làm chiếu liệu (người ra lệnh). Cả hai phải là người có gia thất đề huề và có nhiều con cháu. Hai vị đại thần đó theo danh sách mà chọn người, tối thiểu phải là 5, có nhân thân tốt và tuổi phải hoà hợp với người vợ tương lai. Phong tục muốn rằng, để cho thích hợp thì nhất là gái hơn hai, nhì trai hơn một.
Khi vua chấp nhận và điểm một dấu son dưới tên người được chọn, vị chủ hôn chính thức báo tin cho nhà trai. Bấy giờ người ta chuẩn bị các nghi thức đầu tiên.
Việc chọn vị hôn phu không phải lúc nào cũng suôn sẻ, và cần phải nói ở đây tình hình đã xảy ra đầu triều Tự Đức.
Sau khi vua Thiệu Trị băng hà, Triều đình phải để tang. Bản thân vua Tự Đức phải để tang ba năm đầu khi lên ngôi, và ai cũng biết là trong thời gian đó trong triều không thể có hôn lễ. Sang năm Tự Đức thứ tư (1851), có không dưới 30 công chúa trong số con gái của vua Minh Mạng và Thiệu Trị chưa lấy chồng. Trong số các cô đó có người không còn trẻ trung gì và đã quá tuổi đào tơ từ lâu. Ngày nay, người ta còn kể lại trong giới am hiểu rằng phần lớn con các viên đại thần, có khả năng được chọn vào danh sách, đã chạy khỏi kinh thành, không phải vì công việc, mà trái lại, những người chồng tương lai đó không lấy gì làm hứng thú, vì ngoài vấn đề tuổi tác, theo người ta kể thì một số bà công chúa không phải là người sắc nước hương trời.
Do số tử đệ các công thần không đủ, người ta mở rộng đến con các quan văn và cả quan võ tam phẩm, và cách thức làm như sau: với mỗi công chúa, người ta chọn một đối tượng có tuổi phù hợp. Tên của họ được ghi vào một tờ giấy riêng và để tất cả vào một cái túi. Cô công chúa rút ra bất kỳ một tờ này, trúng tên ai thì sẽ lấy người đó. Tất nhiên sẽ có những trường hợp thất vọng.
Khi vua đã quyết định sự lựa chọn, viên phò mã(1) được lĩnh ở Nội vụ (ngân khố triều đình): 3.000 quan tiền để mua một nhà ở gọi là phủhay đệ; 30.000 quan để mua quần áo, đồ trang sức và đồ dùng cho cặp vợ chồng mới. Các vật dụng đó là: một bộ triều phục cho phò mã, một cái mũ có 5 con phụng gắn san hô và kim cương, một cái đai nạm vàng, một đôi hoa tai bằng vàng, một cái hộp nhỏ bằng vàng đựng đồ trang điểm, và một cái gương có khung khảm xà cừ và vàng, một cái hộp nạm vàng và xà cừ đựng đồ uống trà, một cái ống nhổ bằng vàng, nhiều tấm gấm thêu và lụa cải hoa, những đôi hài thêu và bít tất, một bộ đồ dùng gồm ghế, bàn, tủ, bát đĩa và đồ dùng làm bếp, một chiếc thuyền bồngvà nhiều vật dụng khác.
Người phò mã được cấp một đội quân hầu cận 50 người do một viên đội chỉ huy và do triều đinh trả lương.
Bộ Lễ báo cho Khâm thiên giám chọn ba ngày cát nhật và tấu lên vua. Sau khi được chuẩn tấu, người ta dựng bên trong Tôn nhân phủ (2) một cái đài để tiến hành hôn lễ.
Nhưng các cô công chúa, chỉ được thấy mặt vị hôn phu vào ngày đám cưới, vẫn tìm cách để biết trước người được chọn cho mình. Các cô sai người bí mật dò hỏi các bà mạng phụ và tìm cách xem mặt người chồng tương lai khi họ vào cung lần đầu. Nấp sau một tầm mành hay bình phong, các cô có thể nhìn mà không bị lộ.
Hôn lễ được cử hành như sau. Tất cả có 6 lễ, một trong 3 ngày cát nhật đã chọn sẽ cử hành hai lễ, mỗi đợt cách nhau vài ngày.
Ngày thứ nhất:
1. Lễ nạp thái, phò mã đưa cho Tôn nhân phủ để chuyển lên công chúa 10 lạng vàng, 100 lạng bạc và hai mâm cau.
2. Lễ vấn danh, dẫn hai con trâu, hai con lợn béo, hai ché rượu.
Ngày thứ hai:
3. Lễ nạp trưng, hai tấm đoạn thêu, bốn tấm lụa vân, bốn tấm sa, hai mâm cau, hai ché rượu.
4. Lễ nạp cát(chọn ngày lành), hai con bò, hai con dê, hai ché rượu.
Ngày thứ ba:
5. Vài ngày sau là lễ điện nhạn(dâng ngỗng), dẫn một cái hộp có 5 cuộn chỉ ngũ sắc, hai con ngỗng, 100 đồng tiền đúc ở các đời vua khác nhau (biểu trưng cho lòng chung thuỷ, hạnh phúc lứa đôi và con cháu đầy đàn).
6. Nghi lễ cuối cùng là lễ thân nghinh, là đám cưới thực sự và rước dâu về nhà của đôi vợ chồng son.
Người chủ hônrồi các bà mạng phụ(vợ các quan đại thần) và mạng quan(vợ quan) được chỉ định làm thành đoàn tuỳ tùng, có 6 nữ quan(cung nữ chính thức của cung đình) và phò mãđến đứng bên trái phía sau dinh thụ của công chúa. Đến giờ đã định, các mạng phụ và nữ quan đỡ công chúa lên kiệu. Phò mã cưỡi ngựa đi trước kiệu công chúa, vị chủ hôn và các mạng phụ, mạng quan đi theo sau.
Đám rước đi về nhà ở mới của công chúa. Khi đến nơi, kiệu công chúa đặt trước sân. Phò mã đến ván rèm và đỡ công chúa xuống kiệu. Sau đó đưa công chúa vào chỗ ở của mình, hạ các rèm cửa xuống để cho cuộc gặp gỡ thêm phần riêng tư.
Lúc đó, các ông chủ hôn, chiếu liệu và các bà mạng phụ, mạng quan vào nhà khác ngồi theo thứ bậc: các bà mạng phụ ngồi ở phòng trong. Người ta dọn bữa ăn mời các vị, ăn xong mọi người trở về nhà mình.
Tiếp đấy, phò mã và công chúa làm lễ hiệp cẩn, nghĩa là hai người cùng ăn thịt của một con vật (con vật đã dùng để cúng) và uống hai chung rượu rót ra hai mảnh quả bầu được cưa thành hai phần bằng nhau.
Sáng hôm sau, công chúa đi cùng chồng đến thăm bố chồng và mẹ chồng. Sáng ngày hôm sau nữa, hai vợ chồng đến nhà thờ họ của gia đình phò mã để lạy trước bàn thờ tổ tiên.
Năm ngày sau hôm cưới, công chúa và phò mã mặc áo đại lễ, đến trình diện trước vua, chánh cung hoàng hậu và bà phi, mẹ đẻ của công chúa, nếu là con của các bà phi. Ngay sau đó, hai người đến Tôn nhân phủ để cám ơn vị chủ hôn.
Phò mã được phong ngay chức phò mã đô uý, là quan chánh tam phẩm. Sau khi công chúa qua đời, ông ta có thể được cất cử làm việc tuỳ theo phẩm hàm của mình.
Những lễ tục đó không phải không có thay đổi, ta có thể thấy trong các bản phục lục, nhưng điều chỉnh tuỳ theo mỗi đời vua.
Giống như các người chồng khác, phò mã không được lấy thiếp, trừ khi công chúa không có con. Khi người ta hỏi các con, thì họ đều trả lời là con của bà chúa nào đó, chứ không nhắc đến tên cha mình là ông phò mã. Con trưởng của công chúa được ban chức hiệu uý(tòng lục phẩm), các con khác không được gì, kể cả con gái. Nếu công chúa không có con, thì con trưởng của người thiếp được phong kiểm hiệu(tòng thất phẩm). Họ vẫn được gọi là “mệ” như những người thuộc hoàng tộc khác.
Trong một số lễ nghi và yến tiệc, có khi công chúa được mời nhưng phò mã thì không.
Xưa kia, công chúa không có quyền tìm chồng mà phải lấy người đã được chọn cho mình. Hình như những đám cưới cuối cùng dưới triều Thành Thái và Duy Tân, người chồng tương lai đã được công chúa biết trước và việc công chúa đến Tôn nhân phủ chỉ là hình thức, nghĩa là để chọn một trong 10 hay 15 người trong danh sách.
Phải quay lại triều Tự Đức (1848 – 1883) để tìm hiểu hôn lễ cuối cùng được cử hành theo nghi thức cổ. Đó là đám cưới một bà công chúa con vua Thiệu Trị. Sau đó người ta ấn định nghi lễ tuỳ theo mỗi đám cưới của một bà công chúa.
Vua Tự Đức không có con. Nhà vua đã nhận các cháu làm con để đưa lên ngai vàng trong một thời gian ngắn ngủi. Tự Đức cũng nhận người chị của vua Đồng Khánh sau này làm con nuôi, nhưng khi bà này lấy chồng thì chưa được phong công chúa vì vua Tự Đức băng hà sớm. Người con gái nuôi chưa được phong đó đã lấy người con thứ tư của Nguyễn Văn Tường.
Hôn lễ cuối cùng của công chúa triều Nguyễn là vào năm 1907, đó là công chúa Tân Phong, em của vua Thành Thái, lấy Nguyễn Hữu Khảm, con của Nguyễn Hữu Độ đã qua đời, lúc còn sống là kinh lược Bắc Kỳ. Tấm ảnh đăng ở đây là hình ảnh hai vợ chồng công chúa Chiêu Hoàn mặc đại phục trước ngôi nhà họ còn ở tại Kim Long cạnh thành phố Huế.
Người ta kể rằng khi lấy chồng, công chúa được ban cho một cây kiếm. Còn phò mã thì chỉ nhận một cây roi song, chứng tỏ vị trí thấp hơn của người chồng. Có thể đấy là truyền thuyết, vì tôi không tìm thấy ở dây dấu vết nào của tập tục đó. Có thể nó đã tồn tại thời xưa ở Trung Quốc.
Đến lúc này không còn cô công chúa nào để lấy chồng nữa. Phải đợi cho đến khi hoàng đế Bảo Đại có con gái, nghĩa là phải 20 năm nữa.
_______________________
1. Phò có nghĩa là “đi theo”, mã là “ngựa”. Trong các lễ rước chính thức, phò mã phải cưỡi ngựa đi sau đoàn ngựa lễ của vua, vì vậy mà có tên gọi đó.
2. Là cơ quan quản lý công việc và nhân sự của hoàng tộc, phủ được dựng bên ngoài, cạnh hoàng thành (phía cửa Hiển Nhơn).
Nguồn: Xưa và Nay, số 251 & 252, tháng 1 – 2006







