Hoàng Sa: Trong tim hay sau lưng bạn
Chắc chắn tôi tin là bạn đọc sẽ hiểu rõ rằng các giá trị của tôi là đối cực với những lý thuyết phân biệt chủng tộc, bình định, khai hóa, gia trưởng một cách tinh vi, nói gọn là thực dân, mà ông này bảo vệ trong những bài viết khác nhau của mình. Tuy nhiên, tôi phải đồng thời thừa nhận ở con người phức tạp này một lòng can đảm nhất định và một kiểu chính trực không cãi vào đâu được, khi xét đến môi trường xã hội chính trị mà ông sống trong thời đó.
Dẫu sao thì, ông có công là một trong những người đầu tiên nếu không chính là người đầu tiên, liên quan đến chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, đã bảo vệ một cách mãnh liệt, thông minh và gan góc những lợi ích của xứ An Nam. Và như thế, nước Việt Nam hiện nay phải hàm ơn ông. Ông đã quyết thách thức các vị Toàn quyền và cái mà ông gọi là một “lũ trùm sò nắm chính quyền” ( oligarchie gouvernementale) tiền hậu bất nhất và vô trách nhiệm, hẳn là cũng tham nhũng hay tiếp tay tham nhũng, lóa mắt vì viễn ảnh vàng son của thị trường Trung Hoa và sẵn sàng bán tháo những mảnh “đất cằn” của xứ An Nam dưới sự bảo hộ của họ lấy những huyễn mộng nhượng quyền buôn bán ngọt ngào trong cái Đế chế Trung tâm để đổi lấy sự hưởng thụ bình yên.
Cho phép tôi chia sẻ với bạn đọc những thăng trầm của cuộc chiến đấu ấy thông qua vài đoạn thú vị trích từ tờ báo của ông theo dòng thời gian 10 năm đó.
Tầm quan trọng của Hoàng Sa và mối đe doạ của nước ngoài
Bài báo đầu tiên mà tôi biết đề ngày 30/12/1928 có tiêu đề Các đảo Paracels và Đông Dương. Nó mở đầu như sau: “Các vị lãnh đạo Đông Dương không được phép không biết đến dự án của người Trung Hoa lập ra một quân cảng ở Du Lâm nằm ở phía nam đảo Hải Nam, cửa ngõ vịnh Bắc Bộ, và chính thức chiếm hữu các đảo Paracels.”
Ông Cucherousset nhắc chính quyền thực dân nhớ đến những bản báo cáo mà Sở Nghiên cứu Hải dương học Phục vụ Nghề Cá (Service Oceanographique des Pêches, tiền thân của Viện Hải dương học ngày nay) Nha Trang đã gửi cho Hội ồng Toàn quyền (Conseil de Gouvernement) sau chuyến đi nghiên cứu trong vùng các đảo Paracels vào năm 1926 và 1928 của con tàu kéo lưới rê “De Lanessan”. Những báo cáo rất chi tiết này thu hút sự chú ý của nhà chức trách về quần đảo và lợi ích của chúng. Một báo cáo còn nói về sự hiện diện của người Nhật trên một hòn đảo. Họ đã lên đảo để khai thác phốt phát và bỏ quên vùng này “sau khi đã tiêu khá bộn tiền ở đó” theo ông Cucherousset. Ông viết: “Vả lại họ [người Nhật] đã chẳng trú đóng, vào năm 1925, mà không tìm hiểu một cách ý thức ai là người chủ hợp pháp của những đảo này, và khi nhận được câu trả lời của giới chức trách Pháp nào đó ở Sài Gòn rằng “nước Pháp hoàn toàn cóc cần những bãi đá ngầm và đảo nhỏ ấy” hay gì gì đó theo kiểu này, họ bèn nói với ông tỉnh trưởng Quảng Đông của Trung Quốc. Ông này, vốn tầm ngắm đế quốc chủ nghĩa là vô hạn và sẽ tuyên bố ngay chủ quyền đối với Bắc Cực nếu có ai xin ông ta cho phép đi đến đấy, bèn vội vã tuyên bố rằng các đảo Paracels thực sự là thuộc Trung Quốc và, với lòng hào hiệp bao la, cho phép doanh nghiệp Nhật đóng trên một hòn đảo để thử khai thác phân chim…”
Ông Cucherousset nhận xét: “Nếu các đảo Paracels là sở hữu của Trung Quốc, người ta không hiểu [tàu De Lanessan] sẽ làm gì ở đó vào năm 1926 với chi phí lấy từ ngân sách Đông Dương. Vậy mà những thông tin mà nó báo cáo chỉ ra rằng quần đảo này không phải là một nhóm bãi đá ngầm không lợi lộc gì. Dẫu sao đi nữa, ngay cả nếu như nó chẳng có gì, hoàn toàn chẳng có gì nhìn về mặt đánh cá, hay phân chim, điều không hề được chúng minh, thì vẫn có, vẫn có rất nhiểu điều để làm ở đó xét trên quan điểm an ninh hàng hải, cảnh sát biển, bảo vệ Đông Dương và quan điểm khoa học.”
Nhà báo viết tiếp: “Hãy lưu ý trước nhất rằng những bãi đá ngầm và đảo nhỏ ấy chặn con đường trực tiếp từ Sài Gòn và Singapour đến Hồng Kông… Sẽ rất có lợi khi có một hải đăng ở đảo Triton (Tri Tôn) (1)hay đảo Money (Quang Ảnh) với những phao đèn đơn giản và cọc tiêu ở đảo Triton hay bãi đá Bắc. Cây hải đăng còn phục vụ những điều quan trọng nữa xét trên quan điểm khí tượng học vì nó đứng trên đường đi thường lệ của những trận bão giữa Manille và Tourane (Đà Nẵng), cách Tourane 350km. Nó cần được trang bị một máy vô tuyến điện phát sóng ngắn để liên lạc nhiều lần một ngày với Kiến An [đài khí tượng thiên văn Phủ Liễn – ND] cũng như với các con tàu đi ngang ngoài khơi.”
Ông Cucherousset đề nghị tiến hành một nghiên cứu hoàn chỉnh trên quan điểm hàng hải: “… Khi đó ta sẽ có những sự xác định về những chỗ tàu đậu: cho thủy phi cơ trong phá (lagon) của bãi đá ngầm Bombay (đá Bông Bay), cho tàu lớn ở Tây Nam đảo Lincoln (nước ngọt) (Linh Côn), cho máy bay trong nhóm Amphritite (2), nơi trú bão cho tàu bè gần đảo Boisee (Phú Lâm), chỗ đậu máy bay và tàu nhỏ gần đảo l’Arbre (đảo Cây), trong nhóm Bắc, chỗ đậu thuyền và thủy phi cơ trong phá của đảo Triton….”
Ông Cucherousset viết tiếp: “Theo quan điểm trên thì nhóm Croissant (Trăng Khuyết/ Lưỡi Liềm) dường như có lợi với nhiều đảo: Duncan (đảo Quan Hòa), Drummond (đảo Duy Mộng), Pattle (Hoàng Sa), Roberts (Hữu Nhật) có ít nhiều cây cối và dù sao cũng có nước ngọt và hai chỗ tàu đậu cho tàu bè trú gió mùa Tây Nam ở các đảo Duncan và Roberts. Rất có thể quần đảo này trở thành những nơi ẩn náu tuyệt vời, hoặc cho tụi hải tặc, nếu Trung Quốc là chủ về danh nghĩa, hoặc là cho những tàu ngầm được bố trí để giám sát cửa ngõ Vịnh Bắc Bộ hay con đường từ Singapore và Sài Gòn đi Hồng Kông.”
Chủ quyền không thể tranh cãi của An Nam
Năm sau, trong bài Vấn đề các đảo Paracels, nhà báo can đảm của chúng ta trở lại tấn công: “Chúng tôi đã đặt ra vấn đề các đảo Paracels mà chắc chính quyền muốn dập đi bởi vai trò của họ trong chuyện này không vẻ vang gì, nhưng chúng tôi không hề có ý tự hạn chế trong một bài báo duy nhất… xứ An Nam đặt mình dưới quyền bảo hộ của nước Pháp chứ không phải dưới quyền bảo hộ của các quan chức Pháp ở Đông Dương, và không một mẩu lãnh thổ nào của An Nam có thể bị sang nhượng hay bỏ mặc mà không có sự thuận tình rõ ràng của Hoàng đế An Nam và Tổng thống Cộng hòa Pháp. Từ đó, mọi chính quyền nước ngoài muốn thi hành những quyền nào đó đối với các đảo Paracels buộc phải dựa vào văn bản có hai chữ ký nói trên… các quyền của An Nam đối với các đảo Paracels đã được xác lập và xác lập từ lâu rồi…”
Ông Cucherousset biện luận bằng cách dẫn ra những tư liệu lịch sử mà một số bạn đọc của ông cung cấp. Một trong số người đó tuyên bố: “… Mục tiêu của tôi, cũng như của ông, là hoàn toàn vô tư, và tôi tự thấy mình được tưởng thưởng đầy đủ nếu như… chúng ta có thể ngăn chặn được việc một phần di sản của xứ Annam bị tước đi khỏi tay chúng ta chỉ vì sự thờ ơ và ngu xuẩn của nhũng kẻ bảo đảm việc canh giữ nó.”
Trong những tài liệu và sự kiện được nhà báo dẫn ra: việc chiếm hữu thực sự các đảo Paracels dưới triều Hoàng đế Gia Long (năm 1816); Địa dư Duy Tân; Địa dư Minh Mạng; một đoạn trong công trình của Ông Dubois de Jaucigny “Vũ trụ, Lịch sử và sự miêu tả mọi dân tộc, tôn giáo, phong tục tập quán, v.v. của họ: Nhật Bản, Đông Dương, Ceylan, ... ”; một hồi ký của Jean Louis Taberd, giám mục Isauporis, về địa dư xứ Nam Kỳ, được dịch ra tiếng Anh và đưa vào Kỷ yếu của Asiatic Society of Bengal. Những đoạn hùng hồn nhất trong các công trình trên được dịch và dẫn trong bài báo dài này với hàng tràng chi tiết cũng như hàng tràng bằng chứng không thể bác bỏ về chủ quyền của xứ An Nam đối với Hoàng Sa vào thời mà không nước nào khác đòi quyền ấy. Kết lại, Cucherousset mỉa mai mời các nhà chức trách thuộc địa đi tìm tư liệu nơi Ban Giám đốc Văn khố và Trường Viễn Đông Bác Cổ.
Cùng năm 1929 nhà báo viết nhiều bài khác, một số bài được minh họa bằng ảnh chụp những đảo khác nhau, ông nói rằng: “Có những chiếc đinh rất cứng để đóng và ta không được sợ hãi việc gõ lên đó thật nhiều cú nhè nhẹ”. Ông nhắc nhở ông Toàn quyền mới Pasquier về tầm quan trọng hàng hải, chiến lược và khí tượng học của các đảo. Một bài báo khác, nhan đề “Các quyền của xứ An Nam đối với các đảo Paracels và nhiệm vụ của chính quyền bảo hộ” bàn một cách chi tiết hơn về trách nhiệm của nước Pháp: “Áp đặt quyền bảo hộ của mình với An Nam, nước Pháp trước tiên đã cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của nó đối mặt với các nước ngoài. Nước Pháp buộc phải duy trì các quyền của xứ An Nam ở mọi nơi chốn mà xứ An Nam đã có được và thực thi các quyền ấy.”
Chính quốc thức tỉnh, chính quyền thuộc địa ngọ nguậy
Cuộc chiến bắt đầu lan rộng ra ở các đồng nghiệp của Cucherousset. Tờ Courrier Saigonnais ( Sài Gòn Thư Tín), sau khi lặp lại mọi luận điểm về quyền chủ quyền của An Nam đối với các đảo Paracels và về tầm quan trọng chiến lược của chúng, đã viết: “Nhưng ngay khi người ta nói về các đảo Paracels với một quan chức cao cấp của Phủ Toàn quyền, người ta có cảm tưởng là có vài câu chuyện hèn hạ mà chẳng ai muốn làm sáng tỏ.”
Tháng 4 năm 1931, sau nhiều lần can thiệp của nhà báo và bạn bè ông, chính quốc bắt đầu thức tỉnh hay làm ra vẻ thức tỉnh: “Ông Albert Sarrault (3)tại Thượng viện và Ernest Outrey (4)tại Hạ viện đã khẳng định sự tồn tại có thực của quần đảo Paracels (!), ông thượng nghị sĩ Bergeon (5), Phó Chủ tịch Ủy ban Hàng hải, đã có thể tập họp một số người tán thành và ý tưởng của ông bắt đầu thành hình.”
Dưới áp lực ngày càng tăng của những câu hỏi của chính quốc, cuối cùng ông Pasquier trả lời: “Các quyền của xứ An Nam đối với quần đảo Paracels là không thể tranh cãi, nhưng đòi hỏi những quyền ấy vào lúc này thì không đúng thời cơ.” Ông Cucherousset bèn lại viết: “Tại sao lại không đúng thời cơ thưa ông Pasquier? Vậy trở lực nào chống lại việc xứ An Nam sử dụng những quyền mà nó vẫn giữ từ trăm năm nay? Có phải vì phải để cho người Nhật bòn rút ở đó cho đến tấn phosphate cuối cùng, chắc là bởi họ đã vì việc này mà chi trả cho ai đó cái gì đó ở đâu đó?” Và nhà báo dọa: “… chúng tôi sẽ làm phận sự của mình, sẽ công bố nếu cần toàn bộ hồ sơ chúng tôi có.” Chính quyền liền ra lệnh tẩy chay tờ tuần báo.
Tư liệu mật được tiết lộ. Quần đảo Paracels: món đổi chác với Trung Quốc
Vậy là tờ báo chuyển sang tấn công và tiết lộ liên tiếp hai tài liệu chính thức dưới tiêu đề: Lịch sử hiện đại của quần đảo Paracels. Nó khai hỏa trong số ngày 22 tháng 05 năm 1932 với sự tiết lộ một bản báo cáo mật của người mang tên Lacombe (thực ra là Alexis Elie) khi đó là Trưởng Phòng 1 gửi Phủ Toàn quyển. Bản báo cáo ký ngày 06 tháng 05 năm 1921. Nó nói rằng sự thật là vấn đề quần đảo Paracels xuất hiện lần đầu tiên trong hồ sơ của Phủ Toàn quyền từ năm 1898! Bản báo cáo gợi ra hai sự kiện. Một là vấn đề chủ quyền quần đảo đối mặt với Trung Quốc. Trước hết là chuyện hai chiếc tàu đắm, tàu Belladona (Đức) tại bãi đá Bắc vào năm 1895 và tàu Imegi-Maru (Nhật) tại Amphritite vào năm 1896.
Những tàu này chở đồng, được bảo hiểm bởi một công ty Anh. Tàu đắm bị bỏ mặc, các ngư phủ Trung Hoa cướp phá chúng và đem bán đồ cướp được ở Hải Khẩu (Hải Nam). Sứ thần Anh ở Bắc Kinh và Công sứ Anh ở Hải Khẩu yêu cầu thi hành việc bắt giữ không hơn không kém đối với đồng, tuyên bố rằng, ngay khi xảy ra đắm tàu, các quan lại ở Hải Nam đều biết, lẽ ra họ phải cẩn thận ngăn chặn việc cướp phá và họ phải chịu trách nhiệm về chuyện ấy. Các quan phản đối, viện rằng: “các đảo Paracels là đảo hoang không thuộc về Trung Quốc cũng như An Nam, và không được đặt dưới quyền hành chính của bất cứ quận huyện nào của Hải Nam, và không một cơ quan thẩm quyền đặc biệt nào được giao trách nhiệm cai trị”.
Bản báo cáo mật cũng tiết lộ một yêu cầu điều tra của Bộ Thuộc địa vào năm 1898, nhắm vào việc cho phép một người Pháp đặt trên quẩn đảo Paracels những cửa hàng tiếp liệu cho ngư dân. Điều thú vị là, chính theo lời khuyên của ông Pichon, khi đó là Sứ thần Pháp ở Bắc Kinh, Toàn quyển Paul Doumer đã cho Bộ hay rằng “việc kinh doanh này chẳng có chút cơ may thành công nào…”. Tuy vậy Paul Doumer vẫn khuyến nghị việc xây một hải đăng, yêu cầu này mãi không được trả lời. Một lần nữa các quan chức cao cấp của Pháp đã dọn giường cho Trung Quốc ở quần đảo Paracels và bằng sự ù lì của họ, đã tạo điều kiện để người Trung Hoa có thể biểu lộ việc đòi chủ quyền vào năm 1909.
Tiếp đó bản báo cáo gợi đến một cuộc trao đổi điện tín tai tiếng vào năm 1920 giữa Sài Gòn và Paris. Từ Sài Gòn: “Câu hỏi đã được đặt ra và những cuộc tìm tòi đã thực hiện Đông Dương không kết quả xin cho biết nếu như quốc tịch các đảo Paracels được thiết định hợp thức chiếu theo tài liệu nào.” Trả lời của Bộ Hàng hải ở Paris năm 1921: “Người Trung Hoa đã đòi quyền sở hữu quần đảo Paracels vào năm 1909 chỉ dẫn duy nhất tìm được lúc này. Cho biết nguồn gốc và mục tiêu của câu hỏi này.” Tác giả bản báo cáo lưu ý rằng những thái độ ấy đã củng cố người Trung Hoa trong việc đòi chủ quyền và ngạc nhiên là Bộ Hàng hải đã không hỏi ý kiến Bộ Ngoại giao về câu hỏi trên.
Tóm lại, bản báo cáo mật trên tiết lộ rõ sự nhẹ dạ, thiếu năng lực, thiếu minh bạch, bất hợp pháp của các hành động của chính quyền Pháp, đặc biệt là Bộ Hàng hải, ở Sài Gòn và Paris. Nhưng cũng là của ông Bộ trưởng Ngoại giao. Điều này làm lợi cho Trung Quốc và thiệt hại cho An Nam.
Tài liệu thứ hai được tiết lộ là bức thư của ông Pasquier, Toàn quyền Đông Dương, gửi ngày 20 tháng 03 năm 1930 cho Bộ trưởng Thuộc địa. Trong tài liệu mật này, rõ ràng là viết dưới sức ép, ông Pasquier giương chiếc dù hành chính lên che đậy những sự im lặng có tội và những thiếu sót trước đó: “… Để tiếp theo bức điện tín ngày 14 vừa qua liên quan đến các quyền chủ quyền mà chính quyền tỉnh Quảng Đông muốn đòi hỏi đối với các đảo Paracels, tôi tưởng là mình phải trình bày với ông quan điểm của Phủ Toàn quyền. Thực sự cần thiết để ông được cảnh báo không chậm trễ về những ý đồ của chính quyền Quảng Đông, những ý đồ có thể được thực hiện một sớm một chiều.”
Nhắc đến việc chiếm hữu của người Trung Hoa vào năm 1909, ông bình luận: “Việc chiếm hữu này – mà nước Pháp, cường quốc duy nhất có liên quan, đã không hề chính thức biểu lộ tình cảm – lẽ ra chỉ có giá trị pháp lý với điều kiện các đảo Paracels là những “res nullius” (6)vào lúc mà việc chiếm hữu xảy ra”. Xa hơn nữa, Pasquier viết rằng theo chỉ dẫn từ tòa Khâm sứ Trung Kỳ, “ưu quyền của triều đình Huế không thể tranh cãi” là điều đã được thiết định. Sau khi trình bày tầm quan trọng của quần đảo, như thể ông lấy cảm hứng từ nguyên cả nhiều đoạn trong các bài báo của Ông Cucherousset, Pasquier viết: “Tóm lại, tôi hoàn toàn tán thành các nhà báo của ông để thừa nhận lợi ích của nước Pháp trong việc đòi chủ quyền đối với quần đảo Paracels, với danh nghĩa xứ An Nam”.
Và ông thêm rằng “cho đến nay chỉ có những lý do về thời cơ được đem đối lập với việc những quyền trên phải được chính thức khẳng định.” Trong những lý do này, ông giải thích “… lợi ích dễ hiểu của chúng ta lúc đó là không làm xấu đi dư luận Trung Hoa, vào ngay lúc các hiệp ước Đông Dương đang được thương thảo ở Nam Kinh”.
Để kết luận, ông Toàn quyền đầy can đảm và quyết đoán khuyên rằng: “… tôi thấy rằng thái độ hợp thời nhất cần giữ vẫn là chờ đợi. Nó biểu thị lợi thế của việc bảo lưu các quyền của ta cho đến khi hoàn cảnh thuận lợi cho phép ta đưa ra các quyền ấy. Thực tế, chúng ta sẽ có thể phải đi đến chỗ xem xét bỏ một số mối lợi và đặc quyền mà ta đang hưởng ở Trung Quốc. Lúc ấy quần đảo Paracels sẽ có thể làm thành một món mặc cả hay một khoản bù trừ cho những nhân nhượng về phần ta ở những điểm khác”.
Ông Cucherousset bác bỏ một cách mỉa mai: “Khi người ta muốn có một món mặc cả, thì không thể bắt đầu bằng việc bỏ rơi nó; phải trước hết chứng tỏ mình là người sở hữu.”
Hoàng Sa, ông Bộ trưởng Thuộc địa và các trận bão
Và cũng trong số báo ấy, Cucherousset kéo dài thêm những bình luận của mình bằng một bài báo rất xác thực và rất giàu tư liệu về Các đảo Paracels và những trận bão. Ông kê danh những trận bão chính trong vùng từ năm 1911 đến năm 1928, điểm gốc và đường đi của chúng, dẫn ra những công trình khoa học có thẩm quyền về chủ đề này và chỉ ra tầm quan trọng hàng đầu của một trạm quan sát, cảnh giác và thông tin khí tượng trong vùng các đảo Paracels, nơi đa số các trận bão đi qua. Ông khuyến nghị sử dụng những thu nhập từ việc khai thác phosphate để tài trợ chi phí cho một thiết bị quan sát hữu hiệu. Trả lời một lá thư của nhà báo đề cập chuyện này với mình, Ông Rigaux, Đại biểu An Nam viết: “… trong năm nay (1932) chúng ta đã có tại An Nam 4 trận bão gây ra từ Bắc đến Nam những tàn phá quan trọng và nhiều nạn nhân… Tôi đã 2 lần đánh điện tín cho ông Bộ trưởng Thuộc địa, chỉ rõ tình thế khó khăn của những người Pháp và người An Nam ấy… ông ta đã không hề trả lời! Cùng lúc, tôi cũng viết nhiều thư cho ông Toàn quyền về cùng vấn đề. Ông ta trả lời tôi: “… theo quan điểm của ông Bộ trưởng thì điều cần thiết đã được làm…”. Thế rồi tôi đã tác động tới nhiều nghị sĩ… Nếu trong vài ngày nữa ông Bộ trưởng Thuộc địa vẫn biệt vô âm tín, tôi sẽ yêu cầu một người bạn nghị sĩ chất vấn ông ta…”. Kết luận, ông Đại biểu An Nam viết: “… sự cần thiết tất yếu lập ra một trạm khí tượng ở quần đảo Paracels cho Đông Dương là bắt buộc và tôi sẽ đặt câu hỏi cho Hội đồng Chính Phủ.”
Những ngư phủ Trung Hoa dưới lá cờ bảo hộ Pháp
Trong một số báo tháng 5 năm 1933, mà ông đặt đầu đề là Đi chinh phục các đảo phosphate, Cucherousset miêu tả chi tiết việc chiếm hữu quần đảo Spratleys (Trường Sa) của ba con tàu Pháp: Alerte, Astrolabe và De Lanessan. Ông lợi dụng chuyện này để thêm vào một luận điểm bất ngờ có lợi cho việc chiếm hữu Hoàng Sa. Thực ra ông nói về những ngư phủ Trung Hoa bị truy đuổi bởi các công ty Nhật đang hiện diện trong vùng bãi Tizard khai thác phân chim. Về chủ đề này ông kể một sự kiện kỳ cục: “Những ngư phủ Trung Hoa trên đảo Spratly được bảo đảm có sự bảo hộ của nước Pháp khi mà đã ba năm nay con tàu De Lanessan tuyên bố hòn đảo là của Pháp, họ trương lên lá cờ Pháp mà chiến hạm để lại cho họ (để khiến người Nhật tránh xa); hoặc đó là lá cờ tam tài mới toanh được may ở Hải Nam thay cho lá cờ của tàu De Lanessan đã sờn”. Hàng giả Trung Hoa đã có từ lúc ấy rồi! Ông viết tiếp: “Chúng tôi hết sức tin rằng ở quần đảo Paracels, trong mùa đánh cá và ghé bến, người Trung Hoa sẽ cũng rất sung sướng nếu có thể yêu cầu sự bảo hộ Pháp một khi gặp chuyện”.
Henri Cucherousset qua đời ở Hà Nội năm 1934, bốn năm trước khi Pháp chiếm hữu quần đảo Paracels, khi mà ngày 15 tháng 6 năm 1938, Jules Brevie, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định lập một phái bộ cai trị ở Hoàng Sa, chiểu theo một đạo dụ của Hoàng đế Bảo Đại nhập quần đảo vào tỉnh Thừa Thiên. Cùng trong năm 1938, một bia đá đã được dựng trên đảo Pattle, mang dòng chữ: “Cộng hòa Pháp – Vương quốc An Nam – Quần đảo Paracels – đảo Pattle 1938”. Phải ghi chú rằng việc tái khẳng định chính thức này của nước Pháp về các quyền chủ quyền của An Nam xảy ra một năm sau khi nổ ra cuộc chiến Trung – Nhật lần thứ hai và một năm trước khi Nhật chiếm đóng Hải Nam. Trong một thời kỳ mà tấm bản đồ Trung Quốc của Pháp tan thành khói và chủ nghĩa bành trướng Nhật Bản gõ cửa Đông Dương…
Chú thích:
(1) Tên Việt Nam của các đảo, bãi và bãi đá đã được tác giả chua thêm.
(2) Nhóm nằm ở đông-bắc quần đảo bao gồm những đảo nhỏ, đá ngầm và bãi Bình Sơn, Phú Lâm, cồn cát Nam, đảo Nam, đảo Trung, đảo Bắc, đảo Cây, cồn cát Tây.
(3) Khi đó là Bộ trưởng Hải quân và tương lai là Bộ trưởng Thuộc địa.
(4) Dân biểu, cựu quan chức cao cấp của chinh quyền thuộc địa ở Nam Kỳ, cựu Thống sứ Lào rồi sau đó Campuchia.
(5) Thượng nghị sĩ này, phất lá cờ sự đe dọa Cộng sản, đã công bố trong bản in về phần kinh tế của tạp chí “Capital” (Tư bản): “… Ai cũng đồng ý thừa nhận rằng bọn Cộng sản nổi loạn ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ nhận tiền và vũ khí bằng đường biển, bờ biển Trung Kỳ đặc biệt thuận tiện cho việc đổ bộ bí mật. Vậy ta phải chiếm lấy quần đảo Paracels, những lính gác tiền tiêu của Bắc Kỳ, cứ điểm thuận tiện cho sự giám sát nhưng cũng cho việc buôn lậu.” Hãy nhớ rằng thời kỳ này ở ngay sau những cuộc khởi nghĩa quần chúng ở Yên Bái và Nghệ Tĩnh.
(6) Nghĩa đen: vật không của ai. Đây là một biệt ngữ latinh dùng trong luật dân sự (luật về của cải) chỉ một vật vô chủ, nghĩa là không có người sở hữu tuy nhiên có thể chiếm hữu.








