Hiệu ứng Placebo trong điều trị
Ý niệm bệnh bớt, bệnh được cải thiện… được nuôi dưỡng hoàn toàn, trong cảm tính người bệnh tự cho cuộc điều trị tốt và có hiệu quả. Dáng vẻ tin chắc của người kê đơn hay trao thuốc củng cố thêm sự đồng ý của người bệnh. Kết quả chờ đợi đã đến, giải tỏa các triệu chứng hay mang theo tình trạng bớt, cải thiện… và cả như thế… cho dù, ở khía cạnh y khoa, sản phẩm chỉ là trơ, vô tính. Cách chăm sóc hay cách trao món thuốc tăng thêm hay giảm bớt (hiệu ứng nocebo) kết quả điều trị.
Như thế, hiệu ứng placebo chứng tỏ tầm quan trọng chất lượng liên hệ thầy thuốc – bệnh nhân trong tiến trình tốt của điều trị. Nó nhắc nhở thân thể không chỉ đơn thuần là một cấu trúc giải phẫu và sinh lý, mà cũng là một hệ thống biểu trưng chịu ảnh hưởng xã hội và văn hóa mà con người khoác vào, theo kiểu cách của chính mình, tự biết rõ luôn luôn có người dòm ngó.
Balint, vị thầy lâm sàng thế kỷ trước ở Pháp, còn để lại tên mình cho một trường phái tâm lý trị liệu, có dạy: “… tiếng giày của bác sĩ đến khám, ánh mắt nhìn quan sát chỗ đau, bàn tay sờ nắn khi khám… dủ làm thay đổi tính chất “đau” ở người bệnh”. Nói theo ngôn ngữ ngày nay: “thầy thuốc là placebo (!)”.
Trong thí nghiệm mù đôi, 35% bệnh nhân tuyên bố được cải thiện rõ nét sau khi uống placebo; tỷ lệ đáng suy nghĩ, vì lẽ, với viên thuốc “thật”, chế từ morphin (á phiện) tỷ lệ đau được cải thiện rõ nét là 75% trong số bệnh nhân.
Một công trình nghiên cứu khác của thầy Beecher chỉ rõ: stress của người bệnh càng lớn, hiệu nghiệm của placebo càng tốt; nhanh, mạnh, bền…. Placebo xóa ưu tư lo lắng, đồng thời giảm một yếu tố gây tăng đau ở cơ thể hay khổ sở ở tinh thần. Trong đời thường, dùng chống cơn đau kèm lo sợ – kinh hãi, placebo chứng tỏ một - lần tốt hơn chống cơn đau thí nghiệm.
Hiệu nghiệm tượng trưng trong các trường hợp trên nói lên tính chất phức tạp của đau, đáp vào một con người hơn là chỉ đơn thuần là vào cơ quan. Hiệu năng điều trị, tùy trình bày và nội dung, thật ra có tác động tại cơ quan, nhưng không kém hàm súc ở khía cạnh xã hội, văn hóa, cá nhân hay tình huống bao trùm cảm giác đau ở người bệnh. Như thế, chủ yếu là chữa trị cho con người như một cá biệt đau khổ chớ không phải một thân xác bệnh.
Đau được xác định, tức dễ chịu đựng hơn
Một số bệnh nhân cần phải chữa bằng đại phẫu, được chia ra hai nhóm. Nhóm thứ nhất được thông tin rõ ràng về hệ quả cuộc phẫu thuật, được cho biết vài loại đau do co thắt phản ứng những tạng dưới vết mổ, cải thiện được nhờ nằm im và thư giãn, đồng thời sử dụng liên tục thuốc giảm đau. Nhóm thứ hai, chìm trong lo âu, sợ sệt thông thường không được khuyên giải gì đặc biệt. Kết cuộc nhóm thứ hai sử dụng nhiều thuốc hơn và nằm viện lâu hơn nhóm thứ nhất.
Một công trình nghiên cứu khác liên hệ đến 80 đứa bé sắp cắt amidan nói lên tầm quan trọng của sự bình tĩnh giải thích của bà mẹ và cô y tá phụ trách trong kết quả chung.
Niềm tin của người cho và hưởng thụ của người bệnh
Theo y văn, thầy Beecher tổng kết hồi thế kỷ trước, 15 công trình mù đôi, liên hệ đến 1.082 bệnh nhân đau đớn nhiều sau chấn thương hay phẫu thuật, 35,2% được cải thiện rõ rệt nhờ placebo. 15 năm sau, thầy F.J. Evans thí nghiệm lại cho kết quả 36% bệnh nhân được cải thiện có ý nghĩa với placebo. Thầy Evans có thí nghiệm với morphin, hiệu nghiệm là 56% so với morphin. Đối với các thuốc giảm đau ngoại biên mạnh, như aspirin chẳng hạn (thời bấy giờ chưa có paracetamol) placebo chỉ kém đôi chút. Nhận định này đáng để suy nghĩ và chính thuốc “thật” mà cũng không xóa được cảm giác đau hoàn toàn. Sự tin chắc chất thuốc (vờ hoặc thật) là hiệu nghiệm, không phải vô tính, chẳng những đối với người bệnh mà cả đối với người chữa trị. Nó tác động với hiệu năng tăng tiềm lực trong trường hợp tin chắc chỉ định là đúng, giảm đi hoặc phá tan trong trường hợp người chữa trị hoài nghi, không tin.
Hồi thế kỷ trước, người ta khuyên chữa chứng đau thắt ngực bằng thủ thuật thắt động mạch vú (thuở chưa biết điện tim). Trong nhiều năm, các phẫu thuật viên, có người nhiệt tình hứng thú thực hiện để chữa trị cho bệnh nhân, có người không tin tưởng lắm vào cách chữa trị này thực hiện một cách miễn cưỡng. Thầy Beecher có ý kiến tổng kết kết quả lâm sàng sau chữa trị các bệnh nhân này. Trong bốn vị phẫu thuật viên “nhiệt tình” có 213 bệnh nhân, 38% hoàn toàn khỏi hẳn; 65 và 75% được cải thiện rất nhiều. Ngược lại, trong số bệnh nhân do các vị “miễn cưỡng” mổ, chỉ có 10% được khá khá, giảm nhẹ. Kiểm tra phương pháp mù đôi về mặt sinh lý, thắt động mạch vú là “vô thưởng vô phạt” vì như thế là “trật”… (nguyên nhân, giờ đây ta biết rõ là do động mạch vành). Hiệu nghiệm ở những người được khỏi, “truyền từ lòng tin” vị phẫu thuật viên sang.
Còn nhiều công trình nghiên cứu về đau ở cuối đời những bệnh nhân ung thư, chứng minh đau giảm đi nhiều ở những người được có người thân gần gũi lúc lâm chung.
(*) Hiệu ứng placebo: Xem TSK số 371 - 372, 15 - 1 - 2009