Hiện tượng đồng nghĩa trong câu đố Việt
Câu đố là một thể loại văn hóc dân gian, ra đời ở từng địa phương và lưu truyền chủ yếu bằng phương thức truyền miệng, mang đậm dấu ấn văn hoá bản địa, phương ngữ. Trong câu đố đồng nghĩa(câu đó có sử dụng hiện tượng đồng nghĩa), hiện tượng đồng nghĩa là một trong những phương thức chủ đạo mà người sáng tác câu đố sử dụng có tác dụng gợi mở, định hướng cho người giải trong quá trình suy luận để giải đố.
2.Khảo sát 1.500 câu đố, chúng tôi chọn ra được 83 câu đố có hiện tượng đồng nghĩa, chiếm tỉ lệ hơn 5,5%. Có thể nói hiện tượng đồng nghĩa trong câu đố tuy không nhiều nhưng được sử dụng hết sức phong phú và đa dạng.
Ta thấy có những kiểu đồng nghĩa trong câu đố như sau:
2.1. Đồng nghĩa cùng cấp độ thuộc dạng đồng nghĩa từ vựng, là đồng nghĩa giữa các từ với nhau. Loại này xuất hiện trong trường hợp ở phần đố có từ đồng nghĩa với tên của sự vật trong phần giải, nhưng được gọi khác đi. Sự khác biệt này dựa trên cơ sở đồng sở chỉ giữa từ thuần Việt với từ Hán Việt, thuần Việt - thuần Việt giữa từ địa phương với từ toàn dân,… ví dụ:
Hoa nào không phải lẳng lơ
Mà người kêu bướm ỡm ở đến hay.
- Hoa điệp
Dài dài chiều dọc một gang
Cha ai mà lại nghênh ngang tôn mình.
- Trái đậu phụ
Đêm nằm luống những ngẩn ngơ
Chiêm bao thấy bậu, dậy rờ thì không.
- Cây lá mơ
Cúng có trường hợp đồng nghĩa từ vựng lâm thời, chỉ có giá trị trong văn cảnh, trong đó nghĩa ngữ cảnh đóng vai trò chủ đạo (3, 73)
Một vùng nước biếc cỏ xanh
Ít lâu con nít đua tranh bòn vàng
Người lớn thấy vậy la làng
Sao bay lại dám cắp vàng của tao.
- Ruộng lúa
2.2. Đồng nghĩa khác cấp độ cũng thuộc loại đồng nghĩa lâm thời, biểu vật. Hiện tượng đồng nghĩa trong câu đố có thể diễn ra giữa:
- Từ với từ tổ:
Nhớ em lệ chảy bùi ngùi
Khăn lau không ráo, áo chùi không khô
- Bánh ướt
- Văn bản với từ: có thể nói, toàn bộ các câu đố đều có hiện tượng đồng nghĩa khác cấp độ, giữa văn bản (phần đố) với từ, ngữ, câu (phần giải). Cả phần đố và phần giải đều cùng chỉ một sự vật, nhưng ở phần đố thì được trình bày để sự tri giác sự vật không đầy đủ, nửa kín nửa hở; còn trong lời giải thì sự vật được gọi thẳng tên ra bằng từ tổ định danh và biểu thị sự vật, hiện tượng.
Bên cạnh đồng nghĩa giữa phần đố và phần giải, còn có đồng nghĩa trong phần đố:
Tên em không thiếu chẳng thừa
Tấm lòng vàng ngọt, ngon vừa lòng anh.
- Trái đu đủ
Đồng nghĩa trong phần giải
Một mình có những hai tên
Khoe hay khoe đẹp đứng bên phòng trà
Yêu hoa yêu rất đậm đà
Yêu cho tới lúc hoa ra rã rời
Lại tìm hoa khác mà chơi
Bỏ rơi bạn cũ nên đời mới chê
Đặt cho danh hiệu rất quê
Mà chàng họ Sở chẳng hề oán chi!
- Lọ hoa (bình bông)
2.3. Tất cả những kiểu đồng nghĩa trong câu đố trên là đồng nghĩa trực tiếp, ngoài ra còn có kiểu đồng nghĩa gián tiếp. Trong kiểu đồng nghĩa này, chỉ có một đơn vị hiện ra trong câu đố, đơn vị còn lại do người giải tự suy luận, liên tưởng ra để tìm lời giải, nó không tường minh trong phần giải:
Đem chuônglên đánh Sài Gòn
Để cho nữ giới biết con ông đồ.
- Sương Nguyệt Ánh (là chủ bút từ Nữ giới chung)
Mình tròn lưng lại cong cong
Tơ vương vấn vít con ong giữa vời
Ngày ngày dạo gót đi chơi
Bắt con long thổ ghẹo người thuỷ cung.
- Cần câu ( rồng đất = giun)
Trong các câu đố, bao giờ lời đố cung là phần mô tả nửa kín nửa hở về sự vật, trình bày những nét nghĩa biểu niệm mang tính chất đánh giá về sự vật còn lời giải cùng chỉ chung một sự vật, hiện tượng. Suy cho cùng, mối quan hệ giữa phần đố với phần giải trong tất cả các câu đó là “hiện tượng đồng nghĩa biểu vật” [2, 192]; hay có thể xem phần đố (văn bản) và phần giải (từ, từ tổ) là những đơn vị không cùng cấp độ nhưng là những đơn vị đồng quy chiếu[3, 74].
Như vậy, trong câu đố, đồng nghĩa được sử dụng có khi là “hiện tượng đồng nghĩa cố định (có sẵn trong ngôn ngữ)” hoặc “hiện tượng đồng nghĩa lâm thời (xảy ra tại chỗ trong ngôn từ)”. [4, 31].
3.Về hiện tượng đồng nghĩa, Humboldt cho rằng “từ không đại biểu bản thân sự vật… mà là sự thể hiện của cách chúng ta nhìn sự vật. Đây là nguồn gốc chủ yếu của tính đa dạng trong cách thể hiện cùng một sự vật duy nhất”. [dẫn theo 5, 8].
Do vậy, có khi ứng với chỉ một sự vật nhưng có rất nhiều câu đố khác nhau như có hàng chục câu đố về con trâu, con vật thân thiết lâu đời của người Việt Nam có nền văn hoá gốc nông nghiệp:
a. Bốn ông đập đất, một ông phất cờ
Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân.
b. Tôi là bạn của nông gia
Thân đen, đủi bẩn, nhưng mà công to.
c. Con gì trông tựa con voi
Nhưng ngà mọc ngược, mà vòi lại không?
v.v…
Ngược lại có trường hợp chỉ một câu đố lại có thể dùng để chỉ nhiều sự vật khác nhau, như câu đố sau:
Có răng mà chẳng có mồm
Không mắt không mũi, lưng còm cong cong.
Giải đố: “cái lược” hay “cái liềm”
4. Tìm hiểu hiện tượng đồng nghĩa nói chung và đồng nghĩa trong câu đố tiếng Việt nói riêng là góp phần khám phá và khẳng định sự giàu đẹp của tiếng Việt, vì “hiện tượng đồng nghĩa là bằng chứng rất thuyết phục về cái giàu, cái đẹp và cái trong sáng trong ngôn ngữ Việt Nam . Nó cũng là bằng chứng của một dân tộc có văn hoá, có lịch sử, có một tâm hồn biết yêu, biết ghét, rất tế nhị trong sự quan sát và sáng tạo từ ngữ” [2, 215].
___________________
Tài liệu tham khảo
1. Võ Bình và các tác giả (1982) - Phong cách học tiếng Việt, Giáo dục, Hà Nội.
2. Đỗ Hữu Châu (1996) - Từ vững ngữ nghĩa tiếng Việt, ĐHQG, Hà Nội.
3. Nguyễn Thái Hoà (2005) - Từ điển tu từ - phong cách - thi pháp học, Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Nguyên Trứ (2004) - Bài giảng phong cách học, ĐHSP Tp. HCM.
5. Nguyễn Văn Tu (2001) - Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, Giáo dục, Hà Nội.