Hành trình của “Nhật ký trong tù”
Là người Việt Nam trong thời kỳ sóng gió đầy biến động, chúng ta đã không chỉ một lần đọc tập Nhật ký trong tùbằng thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh. Và qua hơn 100 bài thơ đã được phổ biến, cùng với những mẩu chuyện được nghe quanh các bài thơ ấy, mỗi chúng ta đều bồi hồi xúc động - cảm phục tinh thần của Người: một lòng kiên trinh, chung thuỷ với cách mạng, nhân ái với nhân dân, kiên định niềm tin tất thắng của dân tộc. Cuốn nhận ký được viết trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, khổ ải của lao tù và bị giải tới giải lui gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, trên chặng đường lên chân đi bộ hơn 400 dặm, ngoài những đoạn được đi thuyền hoặc xe lửa, kéo dài suốt chuỗi thời gian dài dặc gần 13 tháng đằng đẵng, giữa lúc cuộc chiến tranh chống phát xít trên toàn thế giới đang bước vào giai đoạn quyết liệt và phong trào giải phóng dân tộc trong nước đang dâng cao, rất cần bàn tay chèo lái của Người. Trong tình huống khẩn trương phức tạp và trong hoàn cảnh éo le không may như vậy, Người vẫn lạc quan, luôn tự xác định, tự rèn luyện tự động viên và suy ngẫm thế cuộc cùng những nước cờ sẽ phải đi. Chính ngay trong bài thơ “Mở đầu”. Người đã ung dung, thư thái, chủ động minh định:
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do...
Bây giờ, chúng ta thử cùng nhau theo dõi hành trình của Nhật ký trong tù qua những địa danh ghi theo thứ tự trong những bài thơ, theo sơ đồ sau đây:
1. Bị bắt ở Túc Vinh (29-8-1942).
2. Vào nhà lao Tĩnh Tây.
3. Đêm ngủ ở Long Tuyền (trên đường đi Thiên Bảo).
4. Đến Thiên Bảo (10-10-1942).
5. Đến Quả Đức.
6. Đến Long An.
7. Đến Đồng Chính (2-11-1942).
8. Từ Đồng Chính đi thuyền đến Nam Ninh.
9. Từ Nam Ninh lại đi bộ sang Vũ Minh.
10. Rồi lại lê bộ đến Tân Dương rồi Lai Tân.
11. Từ Lai Tân đi xe lửa đến Liễu Châu (9-12-1942).
12. Từ Liễu Châu đi Quế Lâm và bị giam ở đây chừng 40 ngày.
13. Lại trở lại Liễu Châu (28-8-1943).
14. Và ngày 10-9-1943 được tự do.
Những địa danh kể trên nằm ở đâu? Có thể còn nhiều người chưa rõ. Tôi may mắn đã có dịp được đi lại từ Liễu Châu qua Nam Ninh, rồi lại tới Bách Sắc vào cuối năm 1944. Tiếp đó lại được theo Người về nước hồi tháng 3-1945, từ Bách Sắc qua Điền Đông, Thiên Bảo. Tĩnh Tây về Pắc Bó. Tôi xin kể tóm lược đôi nét về vùng đất này, mong góp phần minh hoạ thêm cho bối cảnh tập Nhật ký trong tù. Tất thảy những địa danh trên đều thuộc vùng Quế Tây - Trung Quốc, nằm trên lưu vực hai sông Hữu Giang và Tả Giang thuộc thượng nguồn sông Tây Giang, giáp Việt Nam.
Đây là một trong những vùng cư trú của dân tộc Choang - một dân tộc thiểu số đông nhất của Trung Quốc (hơn mười triệu người). Nhân dân dân tộc Choang có nhiều quan hệ với nhân dân các dân tộc nước ta, nhất là với đồng bào Tày - Nùng ở Việt Bắc. Họ có nhiều điểm gần giống nhau về tiếng nói, phong tục, tập quán và đặc điểm sinh hoạt. Có đôi nơi vùng biên giới, nhân dân hai bên còn quan hệ họ hàng, đi lại giúp đỡ lẫn nhau. Đặc biệt nhân dân Choang - Tày, Nùng có truyền thống đấu tranh chống cường quyền, áp bức. Trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và thực dân, người Choang và Tày - Nùng đã đoàn kết chặt chẽ với nhau để đánh thắng kẻ thù chung. Đáng chú ý nhất là thời Lý ở Việt Nam và thời Tống ở Trung Quốc, họ đã cùng nhau đứng lên chống ách thống trị của bọn quan lại, dưới sự lãnh đạo của Nùng Trí Cao và đã lập nên “Nam thiên quốc” (thế kỷ 11). Dọc đường từ Tĩnh Tây qua Điền Đông, Nam Ninh, nhiều cụ già người Choang vẫn còn ca ngợi sùng bái Nùng Trí Cao. Có nơi còn có đền thờ Nùng Trí Cao. Thế kỷ 18, trong phong trào Thái Bình thiên quốc do Hồng Tú Toàn lãnh đạo, nhân dân Choang cũng đã từng tham gia khởi nghĩa chống ách thống trị hà khắc của nhà Thanh.
Đặc biệt, thời kỳ chiến tranh cách mạng Trung Quốc lần thứ 2, nhân dân Choang vùng Tả Giang - Hữu Giang đã cùng nhân dân các dân tộc khác khởi nghĩa thành lập chính quyền Xô Viết trong hơn 10 huyện, có cả huyện biên giới Long Châu (Long Châu công xã). Trong thời kỳ trước năm 1949, mặc dầu bọn phong kiến, bọn phản động Quốc dân đảng và thực dân Đảng dùng đủ mọi mánh khoé để chia rẽ, nhưng chúng đã phí công vô ích. Nhân dân hai vùng biên giới càng thêm đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau tích cực hơn. Khi bọn Quốc dân đảngr khủng bố, lùng bắt, nhiều cán bộ cộng sản ở vùng biên giới Trung Quốc đãn lánh sang vùng biên giới Việt Nam, được bà con Tày - Nùng và những cán bộ cộng sản Việt Nam ở cơ sở đùm bọc, che chở, giúp đỡ (như trường hợp Nông Kỳ Tuấn - tục gọi là “tài thầu” tức “to đầu”, Phan Toàn Trân, Lâm Phúc Tịnh v.v... sang vùng biên giới Tràng Định, Văn Lãng - Lạng Sơn). Ngược lại, khi bị thực dân Pháp khủng bố, lùng bắt, nhiều cán bộ đảng viên Việt Nam tạm lánh sang biên giới Trung Quốc, cũng được nhân dân Choang và cán bộ đảng viên Trung Quốc ở cở sở hết lòng che chở, giúp đỡ.
Những năm đầu 1940, phong trào chống phát xít Nhật nổi lên rầm rộ, nhân dân Việt Nam dấy lên phong trào ủng hộ nhân dân Trung Quốc kháng Nhật, và cùng đồng thời chuẩn bị chống phát xít Nhật chiếm Đông Dương, nên các mối liên hệ càng khăng khít. Được sự ủng hộ và giúp đỡ của tổ chức cơ sở Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng ta đã chọn Tĩnh Tây lập một văn phòng Việt Minh công khai liên lạc với đương cục Quốc dân đảng ở biên giới và bí mật dùng thôn Nậm Quang thuộc Tĩnh Tây (gần biên giới Việt - Trung) mở lớp huấn luyện do Hồ Chủ tịch trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn. Đồng thời đoàn thể còn liên hệ với đương cục Trung Quốc mở lớp huấn luyện quân sự đặc biệt, theo tinh thần trường Hoàng Phố, cho cán bộ Việt Nam tại Điền Đông (trường này có Ngô Quốc Bình tức Hoàng Văn Thái, Tạ Quang tức Hoàng Minh Thảo, Nguyễn Thanh Đồng, Đàm Quang Trung, Siêu Hải v.v...).
Khi đồng chí Lê Quảng Ba bảo vệ Hồ Chủ tịch sang đến Cot Mà, thuộc biên giới Trung Quốc, ngày 20-8-1942, đồng chí đã nhờ cơ sở Đảng Cộng sản Trung Quốc cử đồng chí Dương Thao - một đảng viên người Choang địa phương dẫn đường và bảo vệ Hồ Chủ tịch tiếp tục cuộc hành trình công cán trên đất Trung Quốc. Và sự việc không may đã xảy ra như chúng ta được biết.
Như vậy, rõ ràng vùng đất mà bọ Quốc dân đảng Trung Quốc giam và giải Hồ Chủ tịch, là một vùng cách mạng, có truyền thống đấu tranh kiên cương, đã từng một thời là “Xô viết”, là “Công xã”; và cũng là vùng mà nhân dân hai bên biên giới có quan hệ thân thuộc, qua lại với nhau rất tốt. Tiếc rằng, vùng này vào thời đó, cực kỳ nghèo nàn, lạc hậu. Dân thường thiếu ăn và ăn ngô là chính. Ở nhà tranh vách đất. Trừ nơi gần sông, các nơi khác rất thiếu nước (uống nước ao, tắm giặt cũng nước ao...). Cho nên người tù vốn đã khổ, mà lại bị cùm xích giải đi trên vùng đất nghèo khổ, vào mùa đông giá rét, khô hạn, thì sự khổ ải đó càng tăng gấp bội.
Khi Hồ Chủ tịch bị nạn, thì đồng chí Dương Thao cũng bị bắt. Có bao nhiêu tiền, Hồ Chủ tịch đều dồn hết để cứu chữa cho đồng chí ấy. Song, cuối cùng đồng chí ấy đã hy sinh trong nhà tù tàn khốc, bẩn thỉu, thiếu nước của Quốc dân đảng. Kể lại tôi nghe xong câu chuyện trên, Hồ Chủ tịch đã ngậm ngùi kết luận:
“Mình giác ngộ hơn, hiểu và thấy rõ đích của mình hơn, nên bao nhiêu khó khăn, gian khổ, cũng có thể vượt qua được. Còn các đồng chí mới giác ngộ, chưa thấy rõ đích của mình, tinh thần chưa đủ kiên cường, dễ hoang mang dao động. Như vậy, sẽ chưa đủ sức để chịu đựng những thử thách gian nguy. Đồng chí ấy cần phải luôn luôn có một tình thương nồng ấm và sự chăm sóc chu đáo. Mình đã hết sức cố gắng, nhưng không làm sao cứu vãn được”.
Phải chăng, hình ảnh đó đã thể hiện thành như một bài “Tựa” được viết ngay vào trang bìa cuốn Nhật ký trong tù:
Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại:
Dục thành đại sự nghiệp
Tinh thần cánh yếu đại.
Dịch thơ:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần phải càng cao!
Nguồn: Xưa & Nay, số 259, 5/2006