Hai kiệt tác ngang qua một đời vua
Thời đại Lê Hoàn, dù có ngược lên và xuôi xuống ít năm, cùng với triều đại mà ông trị vì, cũng chỉ vài ba chục năm, khoảng một đời, một thế hệ. Cứ nghĩ thời gian ngắn ngủi thế, đã đủ tạo lập một diện mạo văn chương? Lâu nay, theo quán tính, người ta thường gọi thơ văn Lý Trần hoặc văn học thế kỷ 10-14, gồm cả trước tác của ba triều đại Ngô, Đinh, Lê. Nhưng cả ba triều đại này, ngoài những vần sấm thi ngang qua, thì triều Ngô đã có gì, ngoài lời bàn của Ngô Quyền về kế sách phá Hoằng Thao, chưa đủ tiêu chí là một tác phẩm văn học thành văn; triều Đinh cũng chưa thấy gì thêm, ngoài lời sấm chấm hết: “ Đỗ Thích thí Đình Đinh...”Chỉ còn triều Tiền Lê, thời Lê Hoàn, với tìm tòi mới, có thể mạnh dạn khẳng định: đây là một triều đại khai sáng văn học dân tộc bằng hai kiệt tác thi ca. Thơ văn thời này, ngoài một số bài thơ-kệ của các thiền sư, xem ra không đặc sắc trong số thơ thiền còn lại, thấy có ba chủ đề, đề tài nổi bật: thứ nhất là thơ sấm, thứ hai là văn chương bang giao, thứ ba là văn học yêu nước.
Thời này được xem là “ vỡ tổ sấm ký”(Nguyễn Đổng Chi). Người xem quan niệm sấm là những điều hiện ra, bày ra trước (Sấm giả, triệu dã); sấm lấy quỷ quyệt khéo léo làm lời nói kín, dự đoán lành dữ (sấm giả, quỷ vi ẩn ngữ dự quyết cát hung). Sấm thời này là sản phẩn của thiền sư, đạo sỹ, nho giả, mỗi người đều có một ý đồ riêng khi tung ra những lời sấm, mỗi người đều có phần hiếu sự khi mượn lời thần bí báo trước sự cố sẽ xảy ra, nhưng phần chắc lại là khẳng định những biến cố đã xuất hiện. Nói thế vì sấm có thể có những câu báo trước, nhưng hầu hết lại được đặt ra khi xuất hiện các nhân vật và sự kiện lịch sử hữu quan. Câu sấm vào loại sớm thời này là:
Đỗ Thích thí Đinh Đinh
Lê gia xuất thánh minh
Cạnh tranh đa hoạn tử
Đạo lộ tuyệt nhân hành.
Dịch là:
ĐỗThích giết hai Đinh
Nhà Lê sinh thánh minh
Ganh đua bao kẻ chết
Đường đi người vắng tanh
(Trần Quốc Vượng dịch)
Việt sử lược ghi lời sấm xuất hiện vào năm 974 để báo trước sự kiện sẽ diễn ra vào năm 979, nhưng lấy gì để chứng minh lời sấm đã đi trước sự cố đến 5 năm? Huống chi đến Đại Việt sử ký toàn thưcòn thêm chuyện 12 sứ quân và triều Lý xuất hiện bằng một khổ thơ 4 câu? Về mặt văn học, có tể xem lời sấm trên đây là sự phản ánh xung đột chết chóc, và điều tiên tri hoàng đế anh minh sẽ xuất hiện. Thiền sư Vạn Hạnh “hễ nói ra điều gì, thiên hạ đều coi như lời sấm” ( Thiền uyển tập anh),đã hơn một lần báo trước Lý sẽ thay Lê.
Tật Lê trầm Bắc thủy
Lý tử thụ Nam thiên
Tứ phương can qua tĩnh
Bát biểu hạ bình yên
Dịch là:
Cây tật lê (tức nhà Lê) chìm biển Bắc
Cây lý (tức nhà Lý) mọc trời Nam
Bốn phương binh đao lặng
Tám cõi được bình an.
Sấm cho ta biết một nét sinh hoạt văn hóa tâm linh độc đáo của cộng đồng, lý tưởng muôn đời của dân tộc: muốn có thánh đế minh vương để an nguy trị loạn. Sự phồn thịnh của sấm thi, sấm ngữ ở cái thời còn tao loạn và lắm thần linh, ma quỷ này là nét đặc biệt của tinh thần thời đại.
Với tinh thần tự chủ tự cường, triều đại Lê Đại Hành còn có danh tác của văn chương giao bang. Văn học giao bang thời này mở đầu bằng một giai thoại Lý Giác, sứ thần nhà Tống bẻ bai hai câu thơ trong bài Vinh Nga của Lạc Tân Vương, để đùa anh lái đò Pháp Thuận:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha
Dịch là:
Ngỗng ngỗng hai con ngỗng
Chân trời ngển cổ trông
Không ngờ anh lái đò ung dung ngâm tiếp, cũng cải biên đôi chữ cho trọn vẹn áng thơ hay của thần đồng Đường thi khi mười tuổi:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba
Dịch là:
Lông trắng phơi nước biếc
Sóng xanh quậy chèo hồng.
Thâm ý của Lý sứ thần hiểm hóc đến vậy mà vẫn bị chú lái đò ngang hóa giải bằng tinh thần vô tốn (không thua kém) tri thức văn hóa đồng văn. Khác với vẻ đẹp nên thơ của một thi thoại, bài thơ lưu biệt của Lý Giác tặng Pháp Thuận (lần này thì với tư cách pháp sư cố vấn của triều đình) đã có sắc thái chính trị. Pháp Thuận đem thơ này dâng vua. Vua cho Thiền sư Khuông Việt xem, Khuông Việt nói: “Thơ này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống ( Đại Việt sử ký toàn thư). Đó chính là lời thơ ở hai câu kết:
Thiện ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tĩnh kiến thiền thu
Dịch là:
Ngoài trời lại có trời lên chiếu
Sóng lặng khe đầm bóng nguyệt thâu
Đến khi Giác ra về, Khuông Việt làm bài từ theo điệu Vương Hoàn. Khuông Việt tức Ngô Chân Lưu (933-1011), theo sử sách là hậu duệ của Ngô Quyền, thời Đinh Tiên Hoàng được lĩnh chức Tăng thống và được ban hiệu là Khuông Việt đại sư (nhà thơ lớn Khuông phò nước Việt). Dưới triều Lê Đại Hành, sư được vua kính trọng “phàm các việc quân quốc của triều đình, sư đều được tham dự”. Khi giặc Tống xâm lược, vua sai sư đến cầu đảo thần linh phù hộ, giặc sợ hãi tan chạy”. Sư cùng Pháp Thuận được cử ra tiếp sứ, dùng tài ứng đối ngoại giao khiến Giác kính phục. Bài Vương lang quy dưới đây thể hiện một tình cảm chân thành, một thái độ thân mật với giọng điệu trữ tình, vừa đằm thắm hồn hậu vừa cứng cáp, sang trọng, vượt qua lối thơ bang giao thù tạc nhiều sáo ngữ, lắm từ chương:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Dao vọng thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang
Cửu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết
Đối quy trường
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyệt tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh tẩu ngã hoàng
Dịch là:
Gió xuân đầm ấm cánh buồm giương
Xa ngóng thần tiên lại đế hương
Muôn dặm sóng xanh vượt trùng dương
Trời xa về đường trường
Tình thảm thiết
Chén đưa đường
Vin xe sứ giả vấn vương
Xin đem thân ý vì Nam cương
Tâu rõ cùng thánh hoàng
(Bùi Duy Tân dịch)
Bài từ, ngoài cảm xúc chân tình, làm nên giá trị như đã nói trên, còn giàu ý nghĩa về thể loại. Vương lang quy là tác phẩm mở đầu cho thể tài từ khúc trong văn học cổ, một thể tài đang thăng hoa để trở thành danh ngữ Tống từ, tiếp nối Đường thi, Hán phú... Sư nước Việt ngâm Tống từ tiễn Tống sứ của nước Đại Tống, lẽ nào chỉ là chuyện ngẫu hứng? Huống nữa “bài từ tiễn sứ Lý Giác nhà Tống, lời lẽ nõn nà, có thể vốc được” (Lê Quý Đôn). Tác phẩm thực sự có nhiều chữ hay, tứ đẹp, vừa lụa là gấm vóc vừa tao nhã điển chương. Tất cả nhằm thể hiện ý hướng: dùng ngôn từ nghệ thuật chuyển tải đường lối bang giao hòa hợp Nam Bắc, một cách chân tình lịch lãm. Đường lối bang giao ấy là thừa nhận vai trò bá quyền chủ tể của Bắc triều Đại Tống (đế hương, ngã hoàng) và vị trí chư hầu, phiên quốc của nước Nam(vị Nam cương). Bảo vệ chính quyền tự chủ là bất di bất dịch, còn thần phục thiên triều thì có thể uyển chuyển linh hoạt, sáng tạo, cập nhật, thậm chí giả vờ. Sứ mệnh chính trị giao bang của bài ca tiễn sứ đã được các đại gia Khuông Việt thể hiện thành công.
Song, dầu Vương lang quy có là danh tác văn chương giàu ý nghĩa lịch sử đi nữa, tôi cho rằng Quốc tộ(QT) và Nam quốc sơn hà(NQSH) mới là hai kiệt tác ngang qua một đời vua: Lê Đại Hành.
Đầu những năm 1990, nhân đi tìm tác phẩn đầu tiên của văn họa dân tộc, để phản bác một ngộ nhận: Bạch vân chiếu xuân hải-bài phú khoa Tiến sỹ thời Đường của Khương Công Phụ (người Việt gốc Hoa, đời thứ ba, thi đỗ lại trở về đất tổ, làm quan to, có lúc ngang tể tướng thời Đường) là tác phẩm đầu tiên của văn học Việt, tôi đã chú ý đến xuất xứ bài thơ NQSH. Vào cuộc tìm kiếm đầy hứng thú chưa lâu thì được GS. Trần Quốc Vượng mách cho những dòng viết của GS Hà Văn Tấn, trong bài Lịch sử, sự thật và sử học (Tổ quốc –401-1/1988): “Không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Namquốc sơn hà Nam đế cưlà của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sỹ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả của bài thơ. Nhưng đó là đoán thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng, cho đến nay mọi người dường như đều tin rằng, đó là sự thật, hay nói đúng hơn, không ai dám nghi ngờ đó không phải là sự thật”.
Vô tư thâm nhập vào kho sách Hán Nôm, tìm kiếm những tư liệu ghi chép bài thơ, tên bài thơ, các tình tiết có liên quan đến bài thơ, nhờ viện trợ của đồng nghiệp thân hữu, trong thời gian ngắn tôi đã có được khoảng ba chục văn bản hữu quan thuộc các loại sách lịch sử, địa lý, truyện ký, thơ ca và nhiều thần tích, thần phả truyền thuyết dân gian. Quan sát các văn bản này, thấy rõ nhiều điều:
1. Không có văn bản nào ghi nhận Lý Thường Kiệt là tác giả hoặc tương truyền là tác giả bài thơ.
2. Tất cả các văn bản đều ghi nhận bài thơ là của thần. Thần đây là Trương Hống, Trương Hát, tướng lĩnh của Triệu Quang Phục, bị Lý Phật Tử ép hàng, không chịu khuất phục nên tự tử, trở thành phúc thần, được thờ phụng ở gần 300 ngôi đền ven các triền sông Cầu, sông Thương.
3. Thần đọc thơ của thần, âm phù dương gian trợ quốc an dân, chống ngoại xâm, dẹp nổi loạn, trừ tai họa, kể đã nhiều lần. Nổi bật là hai thần trực tiếp đọc thơ giúp các tướng lĩnh đánh giặc cứu nước. Lần thứ nhất giúp Lê Hoàn chống Tống, lần thứ hai giúp Lý Thường Kiệt chống Tống. Văn bản bài thơ đọc hai lần khác nhau và cũng khác nhau ở hầu hết các dị bản còn lại. Xin mở ngoặc: bài NQSH hiện hành, ở cả sách giáo khoa thấy có ở văn bản Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sỹ, Trương Tôn thần sự tích - khuyết danh...
4. Bài thơ không hề được tuyển vào các tập thơ ca chữ Hán thời xưa, trước sau nó vẫn là thành phần cơ hữu trong truyền thuyết dân gian. NQSH có thể do nhân sĩ thời tự chủ sáng tác, song đã được dân gian hóa, được hoàn thiện dần theo đặc trưng tập thể truyền miệng, rồi sau được cố định trong thần tích, thẩn phả, truyện ký, nhưng vẫn lưu truyền trong dòng đời, qua nhiều thế hệ, âm phù con cháu đánh giặc cứu nước. Cho nên, phải coi đó là bài thơ thần, tác giả là khuyết danh cũng được, nhưng là vô danh hoặc vô danh thị thì khoa học hơn.
5. Từ trong những văn bản đáng tin cây trên đây, có thể thấy ngộ nhận Lý Thường Liệt là tác giả NQSH của Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược xuất bản từ 1919-1920 là do tự ý chứ không dựa vào bất cứ một tư liệu Hán Nôm nào. Đáng tiếc là sau đó, tất cả đều sai theo. cho mãi đến hết thế kỷ thứ 20, họa hoằn lắm, một Hoàng Xuân Hãn, một Đặng Thai Mai, mà cũng chỉ hoài nghi bất chợt mà thôi.
Đến đây, cần tìm thời điểm xuất hiện của bài thơ NQSH cũng như truyền thuyết Trương Hống, - Trương Hát, như một tác phẩm nhân gian truyền miệng. Tư liệu còn lại cho ta biết thần phù trợ người trừ tai ngữ hoạn nhiều lần, ở nhiều nơi vào những năm tháng khác nhau từ Ngô Đinh Lê xuống đến Lý Trần. Song, thần trực tiếp đọc thơ âm phù đánh giặc ngoại xâm thì chỉ có hai lần. Lần giúp Lý Thường Kiệt, nhiều người đã biết, lần giúp Lê Hoàn được kể như sau:
Năm Thiên Phúc Nguyên Niên (980) đời Lê Đại Hành, Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàn Hưng cầm đạo quân xâm lược nước Nam . Đến sông Đại Than, hai bên đối lũy, cầm cự nhau. Lê Đại Hành được mộng báo của thần Trương Hống-Trương Hát: “Nay quân Tống phạm cõi, làm khổ sinh linh nước ta, nên anh em thần đến yết kiến, xin nguyện cùng nhà vua đánh giắc cứu sinh linh”. Canh ba đêm sau, trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng... hai đạo âm binh áo trắng, áo đỏ cùng xông vào trại giặc mà đánh. Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng:
Namquốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ tịnh tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư
Dịch là:
Núi sông nước Nam, vua Nam ngự trị
Điều ấy trời đã định rõ trong sách trời
Cớ sao giặc Bắc xang xâm lược
Bay sẽ bị lưỡi gươm sắc chém tan như chẻ tre.
Quân Tống nghe thấy xéo đạp vào nhau mà chạy tan. Lê Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị thần nhân, sai dân phụng thờ, huyết thực hưởng đời đời (Lĩnh Nam chích quái- Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh, Kiều Phú).
Dựa vào tư liệu trên đây, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bài thơ đã xuất hiện đầu thời tự chủ, cụ thể là vào thời Lê Hoàn chống Tống (980-981). PGS.TS Trần Bá Chí khẳng định: NQSH là bản tuyên ngôn độc lập, chỉ có thể ra đời sau hàng ngàn năm Bắc thuộc nhưng không phải vào thời Ngô Quyền còn loạn lạc, chưa tức vị, trước khi chống Nam Hán, mà là ở thời Lê Đại Hành chống Tống khi thể chế, ngôi vị đã vững vàng, an định (xem: tạp chí Hán Nôm số 4/2003, bài Về mấy bản tuyên ngôn độc lập). Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh trong một công trình nghiên cứu công phu trên tạp chí Hán Nôm (số 1/2002, bài Về thời điểm ra đời của bài thơ Nam quốc sơn hà) cũng chỉ ra rằng: bài thơ NQSH vốn xuất hiện thời Lê Hoàn, như nhiều sách Lĩnh Nam chính quái đã ghi chép, nhưng nhà sử học Ngô Sĩ Liên theo quan điểm Nho giáo chính thống, ghét cái vô luân của Lê Hoàn, ưa lòng trung nghĩa của Lý Thường Kiệt nên đã đem thần trợ vua Lê gắn cho trợ tướng Lý, nay nên trả bài thơ về cho sĩ dân thời đại Lê Hoàn.
Bổ sung vào cách nhìn trên, trộm nghĩ nên là cách nhìn dưới góc độ văn hóa, nhất là văn hóa tâm linh của thời đại Lê Hoàn khác với thời đại Lý Thường Kiệt. NQSH trong truyền thuyết Trương Hống – Trương Hát là tác phẩm có tính tập thể, truyền miệng, Sự hình thành tác phẩm là một quá trình, dõi theo hướng thời gian tiệm tiến. Quá trình ấy đi từ huyền đến thực, từ mộng mơ đến thực tiễn. Quá trình ấy cũng thể hiện rõ qua cách thần đọc thơ phù trợ Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt. Thần ở cõi hư tiếp xúc với người (Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt) ở cõi thực, đã giảm dần tính chất siêu nhiên, linh dị, sắc thái huyền ảo, trước mông lung, nồng đượm, sau nổi nênh, nhòa nhạt, hư thực dường phân. Coi NQSH cũng như truyền thuyết lịch sử Trương Hống – Trương Hát đã xuất hiện, hoặc đang hiện diện, vào thời Lê Hoàn là một dự đoán giàu sức thuyết phục, Với tư liệu hiện nay, một kết luận như thế là tối ưu. NQSH được coi là bản tuyên ngôn độc lập, vừa khẳng định chủ quyền, lãnh thổ, ngôi vị Nam đế, vừa thể hiện niềm tin ta thắng, địch thua, dựa vào thiên lý và chính nghĩa, là chủ đề của bài thơ, cũng là sự thăng hoa của tinh thần dân tộc thời diệt Tống bình Chiêm của triều đại Lê Đại Hành. Nhân định như thế là phù hợp với quy luật và tiến trình phát triển của văn hóa, văn học, của lịch sử dân tộc.
Kiệt tác thứ hai, ở triều đại hoàng đế Lê Hoàn là một bài ngũ ngôn tuyệt cú của nhà sư Pháp Thuận, danh gia đã đề cập tới ở trên, khi tiếp sứ Lý Giác. Theo Thiền uyển tập anh, tác phẩn duy nhất còn giữ lại được văn bản bài thơ, thì Đỗ Pháp Thuận (951-990) học rộng, có tài văn thơ, lời nói phần nhiều hợp với sấm ngữ. “Trong buổi đầu, khi nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, sư có công dựng bàn, hoạch định sách lược. Khi thiên hạ thái bình, sư không nhận chức của triều đình phong thưởng. Vua Lê Đại Hành lại càng thêm kính trọng, thường không gọi tên mà gọi Đỗ Pháp sư, thường ủy thác cho sư các công việc văn hàn... Vua từng hỏi sư về vận nước ngắn dài, sư đáp:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh
Dịch nghĩa:
Vận nước dài lâu như dây leo quấn quýt
Ở trời Nam phải dựng mở thái bình
Nhà vua sống vô vi ở trong cung điện
Thì khắp nước sẽ tắt hết chiến tranh
Dịch thơ:
Vận nước bền vững mãi
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trong điện các
Chốn chốn hết đao binh
(Bùi Duy Tân dịch)
Trong văn bản chữ Hán, bài thơ không có tên. Các tập thi tuyển thời xưa không tuyển bài này. Thơ văn Lý Trần I có lẽ là tập thơ giới thiệu bài thơ đầu tiên với nhan đề: Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn (trả lời nhà thơ hỏi về vận nước). Tổng tập văn học Việt Nam - tập 1 xuất bản 1980, đặt tên bài thơ là Quốc tộ (Vận nước hoặc Ngôi nước). Đây là bài thơ có tên tác giả xuất hiện sớm nhất, nên được các sách văn học sử, tổng hợp, tuyển tập và cả sách giáo khoa văn học đặt vào vị trí khai sáng cho văn học cổ dân tộc. Một số sấm thi, sấm ngữ và cả NQSH thường là khuyết danh hoặc vô danh, nên chưa thể xác định được năm tháng tác phẩm ra đời. Thơ kệ của một số thiền sư nặng về thuyết giáo, giá trị văn học có phần hạn chế và hầu hết ra đời còn sau cả Quốc tộ, nên tính chất cột mốc của tác phẩm là điều cần khẳng định.
Cũng như NQSH, QT là bài thơ giàu sắc thái chính luận, một bài thơ viết về những vấn đề chính trị - xã hội hiện hành của đất nước. Để trả lời nhà vua “hỏi về vận nước ngắn dài”, nhà thơ đã lấy ngôn từ giản dị mà thâm thúy, bày tỏ chính kiến: “Vận mệnh nước nhà dài lâu, bền vững khi nhà vua dựng mở được nền thái bình bằng phương sách”, “Vô vi nhi trị”. Ba nhãn tự: Quốc tộ, Thái Bình, Vô vi vừa là điều kiện vừa là nhân quả cho nhau. Quốc tộ có nhiều nghĩa, trong văn cảnh cụ thể này, nên hiểu là vận mệnh quốc gia. Thái bình theo Hán Việt từ điển của GS. Đào Duy Anh: rất yên bình, thịnh trị, tức một xã hội thanh bình yên vui, không bạo lực, xung đột, chiến tranh. Vô vi là nhãn tự có hàm ý uyên áo. Khái niệm vô vi đầu tiên được hiểu là một thuật ngữ trong sách Lão Tử, nhằm chỉ thái độ sống thuận theo tự nhiên, không bị trói buộc theo khuôn phép đạo đức nhân vi. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, bộ mới, khi đặt bài này ở vị trí mở đầu cho văn học cổ trung đại, thêm cho “vô vi” nghĩa trong “vô vi pháp” của sách Phật: từ bi, bác ái, vị tha. Nhưng tôi thì cho rằng, với tư cách một cố vấn, cũng tức là người tham gia chính sư, Pháp Thuận đã mượn quan niệm vô vi của Đạo gia và của cả Phật giáo để biểu thị phương châm đức trị của Nho gia. Sách Luận ngữ, thiên Vệ Linh Công, có chương: “Tử viết: vô vi nhi trị, kỳ Thuấn dã dư? Phù hà vi tai? Cung kỷ chính nam diện nhi dĩ hĩ”. Nghĩa là: kẻ tự mình ung dung yên tĩnh mà khiến thiên hạ bình trị, có lẽ là Thuấn đấy ư? Ông ta có làm gì đâu? Nghiêm trang đoan chính quay mặt về phá Nam (ý nói làm vua) mà thôi. Cụ Cao Xuân Huy giảng rằng: Vô vi của Khổng Tử là không bày đặt ra, không khai sáng ra, không tổ chức cái gì cả. Đây cũng là thiên nhân hợp nhất, có đức thì trị được, thì người ta hóa theo. Vô vi ở bài thơ chủ yếu là thể hiện phương thức đức trị, đó là hàm ý uyên áo của nhà sư. Như vậy là, với QT, Pháp Thuận đã khẳng định giang sơn bền vững, với một nền thái bình muôn thuở, trong đó nhà vua lấy đức để trị dân. Trả lời nhà vua bằng bốn câu thơ, với nội dung như thế, Pháp Thuận là Thiền sư-thi sỹ đầu tiên thể hiện lý tưởng thái bình muôn thuở của cộng đồng Đại Cồ Việt thời đại Lê Hoàn.
Như vậy, triều vua Lê Hoàn, ngoài chiến tích lẫy lừng, còn có thành tựu lớn về văn chương. Hai áng thơ chính luận, hai kiệt tác không tiền khoáng hậu NQSH và QT đều là tác phẩm mở đầu cho dòng văn học trung đại, đều là sự khai sáng của tinh thần yêu nước và tinh thần nhân đạo, những truyền thống lớn của văn hóa, văn học dân tộc. Từ lâu, từng khẳng định NQSH có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập, thì nay phải khẳng định thêm QT có giá trị như một bản tuyên ngôn hòa bình. Hai kiệt tác ngang qua một thời vua- quang vinh-sang trọng và hoành tráng biết bao.
Theo Văn Hiến Việt Nam số tháng 8/2005