Hà Nội: Cảnh báo nước ngầm nhiễm nitơ
Trước năm 2002, Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) yêu cầu nồng độ amôni trong nước cấp cho sinh hoạt <3mg/l. Từ 4/2002, Quyết định số 1329/2002 của Bộ Y tế quy định NH4 +< 1,5mg/l, tương đương Hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (WTO). Tiêu chuẩn của các nước cộng đồng châu Âu (EC) yêu cầu NH4 +< 0,5mg/l.
Báo động về tình trạng ô nhiễm nitơ
Theo tài liệu trên, khu vực nhiễm nặng có: Pháp Vân, Định Công, Hạ Đình, Kim Giang, Tương Mai, Bạch Mai, Bách Khoa, Kim Liên, Đồn Thuỷ. Ngoài ra, một số khu vực cũng đã có dấu hiệu nhiễm như Ngọc Hà, Mai Dịch. Nhìn chung, các khu vực bị nhiễm nặng amôni tập trung nhiều hơn ở khu vực phía Nam và khu vực trung tâm thành phố. Cao nhất là khu vực Pháp Vân, Định Công (khoảng 20mg/l), sau đó là khu vực Hạ Đình (khoảng 12mg/l), Tương Mai (khoảng 10mg/l).
Báo KH&ĐS số 55 (ngày 18/7/2003), đã có bài “Ô nhiễm nước ngầm phía Nam Hà Nội: nguyên nhân và giải pháp” của TS Cao Thế Dũng, KS Lê Tứ Hải, Liên hiệp KHSX Địa chất - Nước khoáng, Tổng hội Địa chất. Trong đó có những cảnh báo:
Trong tất cả các công trình đã công bố nổi bật lêm một thực trạng là nước ngầm phía Nam Hà Nội đã bị ô nhiễm nặng hơn phía Bắc, trong đó chủ yếu là hàm lượng NH 4, NO 2, NO 3, hàm lượng hữu cơ và vi sinh vật cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn cho phép. Tầng chứa nước được nghiên cứu là tầng cuội sỏi (thường kí hiệu là qp 1) nằm ở chiều sâu trung bình từ 40m đến 70-80m. Đây là tầng nước ngầm chủ yếu cung cấp cho tất cả các nhà máy nước của Hà Nội.
Có hướng xử lý nhưng giá thành còn cao
Về nguyên nhân gây ô nhiễm các hợp chất nitơ cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến. Nhưng dù vẫn còn các ý kiến khác nhau thì vấn đề ô nhiễm nước dưới đất bởi các hợp chất nitơ, đặc biệt là amôni, là đã rõ ràng, từ đó cũng thấy được sự cấp thiết của việc nghiên cứu các phương pháp xử lý ô nhiễm nitơ trong nước ngầm cho Hà Nội. Trong thời gian từ 12/2002 đến 7/2004, CEETIA phối hợp với Đại học Tổng hợp Kumamoto (Nhật Bản) đã nghiên cứu trên mô hình thực nghiệm xử lý nitơ amôn trong nước ngầm nhân tạo bằng phương pháp sinh học kết hợp nitrat hoá - khử nitrat. Các mô hình được chạy với các chế độ khác nhau để xác định các thông số phù hợp sao cho đạt hiệu quả xử lý cao nhất nhưng đảm bảo yêu cầu về mặt kinh tế. Kết quả cho thấy, hàm lượng amôni trong nước thí nghiệm khoảng 20mg/l đã giảm xuống chỉ còn xấp xỉ 0 – 0,53mg/l, đạt hiệu suất từ 93,2 – 99,9% với thời gian lưu nước một giờ. Với hàm lượng amôni trong nước thấp hơn 10mg/l, có thể chỉ cần thực hiện một quá trình nitrat hóa là đủ đạt yêu cầu chất lượng nước cấp cho sinh hoạt.
Tuy nhiên, giá thành xử lý nước ngầm nhiễm amôni khá tốn kém. Theo kết quả tính toán sơ bộ, giá thành sản xuất nước của trạm cấp nước cỡ vừa và lớn sẽ lên tới 4.000 – 4.500đ/m 3, nghĩa là sẽ tăng gần gấp hai lần so với giá nước hiện nay (chủ yếu chỉ được làm trong bằng việc loại bỏ sắt, mangan và khử trùng).
Ngày 17/2/2006, trao đổi với PV Báo KH&ĐS, KS Lê Tứ Hải cho biết, nước giếng khoan sử dụng tại các hộ gia đình cũng không tránh khỏi việc nhiễm nitơ. Được biết, Hà Nội đang phối hợp cùng Viện KH&CN Việt Nam tìm giải pháp xử lý nước cấp cho các nhà máy cấp nước, hướng nghiên cứu có thể sẽ là áp dụng công nghệ vi sinh. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi giải pháp cụ thể, KS Hải có lời khuyên, đối với việc sử dụng nước trong ăn uống, tốt nhất nên xử lý qua bình lọc.
Tác hại của nitơ trong nước sinh hoạt
Các hợp chất nitơ trong nước có thể gây nên một số bệnh nguy hiểm cho người sử dụng nước. Nitrat tạo ra chứng thiếu vitamin và có thể kết hợp với các amin để tạo nên những nitrosamin là nguyên nhân gây ung thư ở người cao tuổi. Trẻ sơ sinh đặc biệt nhạy cảm với nitrat lọt vào sữa mẹ, hoặc qua nước dùng để pha sữa. Sau khi vào cơ thể, nitrat được chuyển hoá nhanh thành nitrit nhờ vi khuẩn đường ruột, lon nitrit còn nguy hiểm hơn nitrat đối với sức khoẻ con người. Khi tác dụng với các amin hay alkyl cacbonat trong cơ thể người chúng có thể tạo thành các hợp chất chứa nitơ gây ung thư.
Nitơ amôn có mặt trong nước ngầm làm giảm hiệu quả của khâu khử trùng bằng clo, do nó phản ứng với clo để tạo thành các cloramin, có tác dụng sát khuẩn yếu hơn nhiều so với clo (khoảng 1.000 lần). Ngoài ra, nó còn giảm khả năng xử lý sắt, mangan bằng công nghệ truyền thống. Nitơ amôn là nguồn dinh dưỡng, tạo điều kiện cho các vi sinh vật nước, kể cả tảo, phát triển nhanh, làm ảnh hưởng đến chất lượng nước sinh hoạt, đặc biệt là độ trong, mùi, vị, nhiễm khuẩn.
Nguồn: KH & ĐS, số 15 (1837), 20/2/2006







