GS Nguyễn Đăng Hưng, một nhà khoa học, một nhân cách
Khi trò Tây viết về thầy ta nhân ngày thầy lấy hưu trí
“Thật là một đặc ân và là niềm hạnh phúc cho tôi khi được quen biết GS. Nguyễn Đăng Hưng. Thật vậy, trước khi tôi trở thành người đồng nghiệp, ông chính đã là người thầy, người hướng dẫn luận văn thạc sĩ và tiến sĩ của tôi. Thầy Hưng là một người có lòng đam mê đặc biệt và luôn luôn bận rộn trong nghiên cứu khoa học. Chúng tôi thường tranh luận gay gắt với nhau về các chủ đề khoa học và chính trị nhưng luôn luôn trên cơ sở chân tình và thân thiện. Thầy cũng là một người đã có công phát triển các chương trình tính toán rất đặc sắc. Điều quan trọng Thầy đã dạy tôi là luôn luôn nhận thức cơ sở lý thuyết cơ bản một cách sâu sắc trước khi bước vào những lập trình ứng dụng. Thầy còn là một nhà yêu nước đáng kính phục. Tôi có cảm tưởng Thầy có khả năng chuyển hóa nhiệt huyết của tuổi trẻ để hướng họ đến việc xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn”. Lời của GS Géry de Saxcé.
1 Nhà nghiên cứu, nhà giáo đại học
Năm 1966, Thầy Hưng được giữ lại làm kỹ sư nghiên cứu tại L.T.A.S. Được làm việc với đội ngũ các chuyên gia hàng đầu, Thầy Hưng đã bị cuốn hút vào niềm say mê nghiên cứu, Thầy Hưng đã chưa bao giờ rời nó cho đến bây giờ. Chìm đắm trong các nguyên lý biến phân và các phương pháp số của GS Fraeijs de Veubeke, Thầy Hưng đã bắt đầu cống bố những công trình khoa học của mình về phân tích đối ngẫu giữa phương pháp chuyển vị và phương pháp cân bằng. Đây chính là một trong những lĩnh vực chính trong toàn bộ các công trình khoa học của thầy Hưng. Thầy Hưng tâm sự : “Nhiều lúc sự đối ngẫu vượt quá lĩnh vực khoa học và có thể hiểu một cách rộng hơn dưới góc độ một qui luật của tự nhiên và cuộc sống giống như các triết lý phương đông”.Ngoài ra, sự nghiệp của Thầy Hưng cũng chuyển qua 1 ngã rẽ mới quan trọng khi năm 1968, Thầy Hưng được triệu về làm việc tại khoa Sức bền Vật liệu và Ổn định công trình do GS Charles Massonnet làm trưởng khoa. GS Charles Massonnet là một giáo sư nổi tiếng về chuyên ngành Kỹ thuật Công trình tại Trường Kỹ Thuật thuộc Đại học Liège.
Tuy nhiên , Thầy Hưng vẫn tiếp tục bị cuốn hút bởi thuyết đối ngẫu và điều không thể phủ nhận được là Thầy Hưng đã phát minh ra một chuỗi các phần tử lai, một sự cống hiến khoa học rất được giới khoa học quan tâm, nhất là những năm gần đây. Các phần tử lai tiếng Anh là “mongrel” tiếng Pháp là “métis” là loại phần đem lại hội tụ rất nhanh và đơn điệu, rất có hiệu quả trong tính toán so với các loại phần tử thường. Các phần tử “lai” là loại phần tử trung gian giữa những phần tử dị biến và những phần tử thuần túy, có tốc độ hội tụ cao và có độ hội tụ đơn điệu.
Nhưng không lâu sau đó, sự nhiệt tình mãnh liệt của GS Charles Massonnet đã cuốn hút Thầy Hưng vào 1 lĩnh vực mới, đó là phân tích giới hạn dẻo. Được đào tạo về tính toán kết cấu, Thầy Hưng đã phát triển chương trình CEPAO dùng để phân tích giới hạn dẻo và tính toán tối ưu các kết cấu công trình khung phẳng thép. Đóng góp nổi bật của chương trình CEPAO so với các chương trình khác lúc đó là khả năng tự động hóa việc phát sinh cơ cấu gãy đổ.
Kết hợp với các thuật giải phức tạp khác, CEPAO là bộ công cụ số rất mạnh trong việc tìm tải trọng giới hạn của kết cấu công trình. Công trình nghiên cứu khoa học tiên phong này là sự bắt đầu cho các nghiên cứu nổi bật khác trong các lĩnh vực liên quan của Thầy Hưng sau này.
Các mã chương trình tính toán số nhanh chóng được phát triển thành mô-đun tính toán tối ưu có kể đến chảy dẻo của vật liệu. Sự tìm ra các điều kiện thêm vào cho các luật ổn định theo hướng dẫn của Âu châu ECCS là một bước cải tiến đột phá, chuyển một chương trình học thuật sang một công cụ tính toán thực tiễn cho kỹ sư trong quá trình nghiên cứu, tư vấn. Trong các đặc điểm nổi bật của CEPAO, chúng ta có thể kể đến sự mở rộng của mô-đun khung bê tông cốt thép và mô-đun tối ưu hóa shakedown dưới các loại tải trọng lập thay đổi.
Một chương trình tính toán khác đã được Thầy Hưng phát triển trong những năm 70 và 80 là ADELEF. Thầy Hưng đã thoáng thấy được sức mạnh của giải pháp qui hoạch toán học kết hợp với phương pháp phần tử hữu hạn. Đây chính là trọng tâm trong các hoạt động nghiên cứu khác nhau của Thầy. Sử dụng xấp xỉ trường ứng suất dường như đặc biệt thích hợp trong phân tích dẻo nhưng việc áp đặt các điều kiện dẻo tại các vị trí bất kỳ là một công việc khó khăn. Thầy Hưng đã đề nghị một phương pháp độc đáo dựa trên tiêu chuẩn dẻo “trong trung bình” để dẫn đến nguyên lý biến phân “thoải mái” (relaxed) cho phép tính toán tải giới hạn của các kết cấu 2 chiều. Phương pháp phân tích giới hạn đã vượt qua được phương pháp lịch sử tải trọng hoàn chỉnh trước đó khi tìm sự gãy đổ nhưng nó bị giới hạn trong các bài toán với tải trọng tỉ lệ. Tuy nhiên, dạng tải trọng tỉ lệ thường không phù hợp trong nhiều ứng dụng.
Phương pháp này đã thể hiện tất cả các sức mạnh khi áp dụng cho tải trọng lập thay đổi: đây chính là các tiếp cận shakedown đã được đề cập. Ngày nay, kiến thức được phổ biến trong các tuyển tập và tạp chí khoa học nhưng đó không phải là cách duy nhất. Trong cuộc đời của người nghiên cứu, có nhiều sự kiện mang tính quyết định. Đó là lần Thầy Hưng gặp Tiến Sỹ Jan König, một nhà khoa học Ba Lan tại Milan, người đã giải thích những ý tưởng chủ đạo của phương pháp thích nghi chảy dẻo (shakedown). Và họ cùng nhau viết bài báo khoa học về vấn đề “Làm thế nào dùng phương pháp phần tử hữu hạn cho các vấn đề shakedown” năm 1976 và đây cũng chính là điểm bắt đầu của Thầy Hưng cho các công trình liên quan đến kết cấu 2, 3 chiều, tấm, vỏ và ống gấp. Bằng chứng đầu tiên của các nghiên cứu đỉnh cao này là sự tham gia dự án LISA “Phân tích giới hạn và shakedown bằng phương pháp phần tử hữu hạn cho thiết kế và đánh giá tính toàn vẹn trong công nghiệp Âu Châu”do BRITE-EURAM, Liên minh Âu Châu tài trợ (1988-2002).
Từ lõi của chương trình ADELEF ban đầu được phát triển cho các bài toán phân tích giới hạn, các mô-đun khác đã đuợc phát triển để phân tích bài toán nhớt dẻo và tiếp xúc. Tất cả các công trình này đã đạt được bởi nhóm các nhà nghiên cứu trẻ do Thầy Hưng đứng đầu. Trong đó có thể kế đến P. Desir, P. Detroux, P. Falla, D. Frangopol, R. Jospin, P. Morelle, L. Palgen và Géry de Saxcé. Các thành quả khoa học này được tập hợp và thể hiện trong luận văn tiến sĩ đặc biệt về khoa học của Thầy Hưng. Năm 1982, tại Liège Thầy Hưng tổ chức hội thảo “Áp dụng các phương pháp qui hoạch toán học trong phân tích và thiết kế kết cấu”thu hút hơn 40 diễn giả từ các quốc gia Âu châu tham gia. Cùng với các thành quả khoa học, Thầy Hưng từng bước đạt các vị trí học thuật: Trợ giảng năm 1968, Trợ lý giáo sư năm 1972, Giảng viên năm 1978, Phó giáo sư năm 1984 và Giáo sư năm 1991.
Khoảng thời gian ngắn sau, Thầy Hưng chuyển sự nghiên cứu sang 1 lĩnh vực mới có dấu ấn sấu sắc trong sự nghiệp của Thầy: Cơ học Rạn Nứt, là lĩnh vực chính trong ngành Hàng không, Không gian. Đồng thời Thầy tập trung vào các công cụ số trong phần mềm thương mại tính toán cơ học dùng trong công nghiệp, SAMCEF. SAMCEF là chuơng trình phần tử hữu hạn được phát triển bởi L.T.A.S. và được thương mại hóa bởi công ty SAMTECH. Năm 1987, Thầy Hưng thực hiện hợp đồng 1 năm với công ty SAMTECH nhằm phát triển mô-đun Cơ Rạn Nứt trong SAMCEF cho công ty S.E.P. Đây là hợp đồng đầu tiên trong số các hợp đồng sau này được công ty AEROSPATIALE tài trợ.
Như là kết quả tự nhiên của quá trình phát triển quan trọng này, Thầy Hưng trở lại L.T.A.S. năm 1991 với vị trí Giáo sư truởng bộ môn “Cơ Rạn Nứt Vật Rắn”và làm việc tại đây cho đến nay. Giai đoạn cuối này của sự nghiệp đã đánh dấu bằng các hợp đồng trong lĩnh vực cơ rạn nút với các công ty, các viện của Châu Âu và các vùng. Đây chính là đỉnh cao của nghiên cứu lý thuyết và số vì được áp dụng trong việc phát triển công nghiệp và kinh tế. Từ năm 1991 đến năm 1995, Thầy Hưng đã tham gia vào các chương trình “Vật liệu nhiều lớp”do vùng Wallonie tài trợ, “Phát triển và đánh giá hiện tượng phá hoại trong vật liệu hỗn hợp”. Tiếp theo là các dự án Châu Âu COST “Mô hình và mô phỏng sự phát triển và phá hoại của vết nứt trong kết cấu kim loại và hỗn hợp do mỏi với sự xuất hiện của ứng suất dư”(1995-1999), dự án COMDY “Sự tách lớp và sự phá hoại của tấm vật liệu hỗn hợp nhiều lớp dưới tải trọng động”được tài trợ bởi vùng Wallonie (2002-2006). Trong số các công trình khoa học của Thầy Hưng đến nay, chúng tôi muốn đề cập đến sự phát triển của chương trình BECOME dựa trên phương pháp phần tử biên, một phương pháp rất hiệu quả trong việc mô hình hóa các bài toán có vết nứt. Trong chương trình này, chúng tôi nhận thấy sự ảnh hưởng của GS Charles Massonnet, người được xem là tiên phong trong phương pháp số, trong việc đóng góp các công trình đầu tiên giải các phuơng trình tích phân
Mặc dù hoạt động chính trong ngành Cơ Rạn Nứt, Thầy Hưng vẫn tiếp tục theo đuổi các nghiên cứu trước đây về tính toán tải shakedown bằng các hợp đồng công nghiệp. ELSA, phiên bản đặc biệt của ADEFEF cho ống khuỷu, được phát triển và dùng trong khuôn khổ của hợp đồng với công ty FRAMATOME. Các hợp đồng mới được Ủy Ban Châu Âu tài trợ trong lĩnh vực “Khoa học và Công Nghệ Hạt Nhân” trong việc phân tích shakedown cấu trúc ống và khuỷu ống với sự tham gia của Đại học Báck Khoa Mons và công ty Anh quốc NNC.
Trong thời gian làm việc tại L.T.A.S, danh sách các học trò và người cộng tác của Thầy Hưng ngày càng dài: Nicolas Moës, B. Borlée, Bùi Công Thành, Kang Chi Hang, Bùi Quốc Việt, Yan Ai Min, Đoàn Đức Bảo, M. Duflot, S. Bordas, E. Maréchal, Jiang Yansheng, Nguyễn Đại Quý, Nguyễn Tiến Dương, Nguyễn Văn Hiếu, P. Schils, M. Scibetta, Vũ Đức Khôi, Đỗ Quang Khánh, Nguyễn Đình Giang, Đặng Đình Thi, Trần Đức Hân, Châu Đình Thành, Trần Thanh Ngọc, Đỗ Văn Trường, Phan Hồng Quang, Bùi Quốc Tính, Nguyễn Vĩnh Phú, Nguyễn Xuân Hùng, Hoàng Văn Long…
Thầy Hưng cũng là tác giả của hơn 20 cuốn sách, bài giảng, từ điển và hơn 200 công trình khoa học mà phần lớn số đó được xuất bản bởi các tạp chí khoa học danh tiếng trên toàn thế giới. Thầy Hưng đã được trao huy chương của Hiệp hội Học thuật Khoa học, Văn học và Nghệ thuật, Vương quốc Bỉ, danh hiệu Grand Officer of King Leopold II "s orderscủa chính phủ Bỉ năm 1999 và được đề cử trao tặng danh hiệu Grand Officer of the Crown’s ordernăm 2006. Vào tháng 7/1999, Thầy đuợc tạp chí hàng tuần của Bỉ "Le Vif – l’Express" bình chọn là 1 trong 10 người nước ngoài "đã làm thay đổi nước Bỉ”. Tuy nhiên, đây là một khía cạnh khác trong tính cách Thầy mà chúng tôi sẽ đề cập chi tiết hơn trong phần tiếp theo.
2 Phát triển nhân lực cho Việt Nam
Có 3 làn sóng nhập cư từ Việt Nam sang Bỉ: đầu tiên là giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp tại Việt Nam, thứ hai là những sinh viên đạt học bổng học ở nước ngoài trong đó có Thầy Hưng và thứ ba là những người vượt biên với thành phần đa dạng, ngành nghề khác nhau, đặc biệt là nghề nhà hàng ăn uống .
Thầy Hưng đã đóng vai trò tích cực trong các hoạt động của Hội Việt Kiều yêu nước tại Bỉ. Thầy đã tham gia vào các cuộc biểu tình chống chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam ở Bruxelles và Liège với niềm khao khát vãn hồi hòa bình ở Việt Nam. Năm 1976, sau khi đất nước thống nhất, Thầy Hưng trở về Việt Nam theo lời mời của Ủy Ban Khoa học và Kỹ Thuật Nhà Nước Việt Nam, tiền thân của Bộ Khoa học và Công nghệ, để giảng dạy 2 tuần tại ĐH Giao Thông Vận Tải Hà Nội cho các giảng viên hay nghiên cứu sinh đến từ các trường Đại học hay các Viện Công nghệ khác nhau ở Hà Nội như Bách khoa, Xây Dựng, Thủy Lợi, Cơ học …
Thầy vẫn giữ quốc tịch Việt Nam và mong muốn trở về để tham gia vào sự nghiệp phát triển đất nước. Tiếc rằng tình hình Việt Nam sau chiến tranh đã không như Thầy tưởng. Chúng ta có thể tìm thấy những trăn trở của Thầy về những định hướng kinh tế và xã hội kiểu cũ tại Việt Namtrong suốt 10 năm đầu sau khi thống nhất đất nước ở bài báo nổi tiếng “Bút ký của một nhà khoa học Việt kiều”(Đoàn Kết số 418, Paris , 11/1989)
Nhưng chính trong thời gian ngắn ngủi này, Thầy Hưng đã nhận ra rằng: “Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và lớp trẻ sở hữu một truyền thống hiếu học. Bởi vì các cuộc chiến tranh kéo dài, những người trẻ tuổi Việt Nam không thể có những cơ hội để được du học và tiếp thu nền giáo dục thế giới.”Với nhiệt huyết sẵn lòng phát triển nhân lực Việt Nam, Thầy Hưng hiểu rằng mục tiêu này chỉ có thể đạt được trên nền tảng hợp tác vững chắc đuợc kết hợp trong 1 chương trình chính thức.
Tuy nhiên, phải sau năm 1989 khi chính sách “Đổi mới” bắt đầu rõ nét tại Việt Nam Thầy mới có thể tìm ra được cơ chế phù hợp để hiện thực hóa các dự án mong muốn. Để đạt được các mục tiêu này, Thầy đã kết nối các mối quan hệ để bắt đầu các dự án nhỏ từ năm 1990 với sự giúp đỡ tài chính của các tổ chức quốc tế và quốc gia khác nhau: Đại học Liège, Ban liên lạc Quốc của Cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp (C.G.R.I), Cơ quan tài trợ cộng tác Đại học của Cộng đồng thế giới nói tiếng Pháp (F.I.C.U.-A.U.P.E.L..-U.R.E.F nay là AUF).
Với uy tín và lòng kiên nhẫn của mình, Thầy Hưng đã thuyết phục các nhà tài trợ nước ngoài và các đối tác Âu Châu giúp đỡ tài chánh cho các chương trình. Thầy cũng đã ra sức thuyết phục cơ quan chức năng Việt Nam chấp thuận cho triển khai dự án. Những nỗ lực liên tục và bền bĩ của Thầy Hưng đã đưa đến kết quả mỹ mản trong năm 1995 khi chương trình liên đại học “Thạc sĩ Âu Châu về Cơ học Xây dựng, EMMC”đào tạo sau đại học ra đời. Ba năm sau, một chương trình tương tự khác “Thạc sĩ Âu Châu về Cơ học tính toán môi trường liên tục, MCMC”được thành lập ở Hà Nội. Ban đầu, dự án này đuợc hỗ trợ bởi Cơ quan Quốc gia về Hợp tác phát triển quốc tế của Bỉ. Chương trình đào tạo sau đại học này được xây dựng theo tiêu chuẩn Âu Châu. Trường Đại học Liège cấp bằng cho các sinh viên hoàn tất khóa học. Một số học bổng được cấp cho một số sinh viên xuất sắc nhất tiếp tục học tập cao hơn, thường là chương trình tiến sĩ, ở Châu Âu, Mỹ, Canađa, Nhật và Úc …
Cho đến nay, cả 2 trung tâm với sự tham gia giảng dạy của các giao sư danh tiếng từ các truờng đại học ở Bỉ và sau này là ở Châu Âu đã đào tạo được 318 thạc sĩ, 12 người trong số đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ và hơn 50 người khác đang chuẩn bị bảo vệ tại khắp các đại học tiên tiến trên thế giới. Ngoài ra, phần còn lại là những giảng viên ưu tú tại các trường đại học khắp đất nước Việt Nam , những thành viên cao cấp trong các cơ quan nhà nước, công ty, doanh nghiệp.
Năm 2001, Liên Hiệp Châu Âu cũng đã tài trợ cho cac dự án do Thầy Hưng đề xướng, giúp Việt Nam phát triển công nghệ thông tin, bao gồm nâng cao chất lượng nghiên cứu và giảng dạy. Chương trình đầu tiên được thực hiện tại Tp. Hồ Chí Minh gồm các truờng Đại học Bách Khoa, Đại học Montpellier II, Pháp và Đại học TU Delft, Hà Lan. Chương trình thứ hai được thành lập tại Hà Nội với sự tham gia của Đại học Liège, Đại học Aix-Marseille, Pháp, Đại học TU Luleå, Thụy Điển và 5 truờng đại học Kỹ Thuật Việt Nam tại Hà Nội.
Năm 2003, một thỏa thuận đã được ký kết giữa Đại học Liège Bỉ và trường Đại học Xây Dựng Hà Nội về việc đào tạo 50 tiến sĩ trong thời gian 10 năm. Đây là chương trình hợp tác giữa các trường Kỹ thuật ở Việt Nam và 10 trường Đại học danh tiếng ở Âu Châu. Theo chương trình này, sinh viên sẽ có 2/3 thời gian nghiên cứu ở nước ngoài và 1/3 thời gian ở Việt Nam . Thầy Hưng thường phát biểu: “Dạng đào tạo này giúp sinh viên đạt được kiến thức mức tiêu chuẩn quốc tế trong khi đó lại tiết kiệm ngân sách”. Hơn thế nữa, ở góc độ xã hội, nó ngăn cản sự chảy máu chất xám sang các quốc gia phát triển. Trên thực tế, chương trình mang lại những ảnh hưởng hiệu quả hơn cho việc nghiên cứu khoa học phù hợp với các vấn đề kỹ thuật và kinh tế của Việt Nam . Không còn nghi ngờ gì nữa, triết lý của dự án này là một phần Thầy Hưng đã đúc kết được từ chính kinh nghiệm hợp tác của Bỉ trong thời gian Thầy làm phó giáo sư tại Đại học Kinshasa, Congo từ năm 1982 đến 1986.
Gần đây (2004), trong một cuộc phỏng vấn, một nhà báo đã hỏi Thầy về tương lai. Thầy trả lời: “Tôi muốn dành phần còn lại của đời mình tiếp tục một số việc có ích để cuộc đời ý nghĩa hơn. Sau đó, tôi mong mỏi sống lại thuở ấu thơ bên dòng suối nhỏ, có nước chảy róc rách trong buổi trưa hè hay được thường xuyên nằm nghe trước khi chợp mắt, bản đàn bất tận phát ra từ thuở hoang sơ, tiếng rì rào của sóng biển ngày đêm vỗ về cát trắng...”
Tất cả chúng ta đều mong hy vọng Thầy có thể đạt đuợc những mong ước bình dị trong thời gian nghỉ hưu thực sự của Thầy, bên cạnh gia đình đông vui bao gồm bốn người con và tám người cháu nội cũng như ngoại.
Người dịch : Châu Đình Thành
Bài này được trích trong cuốn “ Collection of papers from Prof. Nguyen Dang Hung’s former students”, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh xuất bản năm 2006
*Géry de Saxcé, Giáo sư Tiến Sỹ Trường Đại Học Lille 1, Pháp